Thứ 7, 27/04/2024 14:04:58 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 08:12, 22/12/2019 GMT+7

Oan án Lê Ngân

N.D
Chủ nhật, 22/12/2019 | 08:12:00 379 lượt xem

BP - Theo sách “Đại Việt thông sử”, sau khi giải phóng được toàn bộ khu vực đồng bằng xứ Nghệ, Lê Lợi cho quân ráo riết vây hãm thành Nghệ An. Để đề phòng khả năng giặc có thể kết hợp đánh từ Bắc đánh vào, đánh từ Nam đánh ra, lại cũng để không ngừng mở rộng vùng giải phóng, Lê Lợi cho một bộ phận lực lượng gồm hơn 1.000 quân và 1 thớt voi, do Thượng tướng Lê Nỗ, Chấp lệnh Lê Đa Bồ và tướng Trần Nguyên Hãn chỉ huy bất ngờ đánh vào vùng Tân Bình - Thuận Hóa.

Ngay sau đó, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn lại phái các tướng Lê Văn An, Lý Triện, Lê Bôi và Lê Ngân, đem 70 chiến thuyền, gấp rút tiến vào tiếp ứng. Sự có mặt của đạo quân tăng cường này khiến giặc đã sợ lại càng thêm sợ. Chúng không dám chống cự mà buộc phải rút vào cố thủ trong thành. Vậy là cũng tương tự như ở Nghệ An, Lam Sơn đã giải phóng tất cả vùng đồng bằng dân cư đông đúc, thành giặc chỉ như các ốc đảo chơ vơ có thể bị tiêu diệt bất cứ lúc nào. Sách “Lam Sơn thực lục” có ghi: Các xứ Tân Bình và Thuận Hóa đều về ta tất cả. Đó là đất lòng dạ của ta. Đã thu được đất ấy rồi thì mối lo ở phía Nam cũng không còn nữa...

Tháng 9-1426, sau khi giải phóng được một vùng đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trở vào Nam, Lê Lợi đã điều động hơn 1 vạn quân, chia làm 3 đạo khác nhau, cùng tiến ra hoạt động ở vùng còn tạm bị quân Minh chiếm đóng và tìm cách uy hiếp thành Đông Quan. Tháng 11-1426, quân Lam Sơn đã thắng lừng lẫy ở trận quyết chiến chiến lược Tốt Động - Chúc Động, đập tan hoàn toàn mưu đồ phản công của Vương Thông.

Tin đại thắng báo về, Lê Lợi rất lấy làm phấn khởi. Ông lập tức đưa toàn bộ Bộ chỉ huy Lam Sơn ra đóng ở ngay vùng ngoại thành Đông Quan. Trước khi đi, Lê Lợi trao quyền tổ chức vây hãm thành Nghệ An cho Lê Ngân và Lê Ngân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ông vừa ráo riết siết chặt vòng vây vừa không ngừng lên tiếng dụ hàng. Tháng 2-1427, tướng giặc đang giữ thành Nghệ An là Thái Phúc phải mở cửa xin hàng, Lê Ngân hiên ngang vào tiếp quản thành Nghệ An. Sự kiện này khiến quân Minh thực sự lo sợ. Đội ngũ của chúng mỗi ngày một rệu rã hơn.

Do lập được nhiều công lao, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lê Ngân được tấn phong là Suy trung Tán trị, Hiệp mưu Công thần, hàm Nhập nội Tư mã, quyền tham dự triều chính. Tháng 5-1429, triều Lê dựng biển khắc tên 93 khai quốc công thần, tên ông được xếp ở hàng thứ tư, ông được phong tước Á hầu. Năm 1434, Lê Ngân được phong hàm Tư khấu, chức Đô Tổng quản Hành quân Bắc Đạo và được cùng với Đại Tư đồ Lê Sát nắm quyền phụ chính.

Năm 1437, khi Lê Sát bị bãi chức, ông được trao quyền Tể tướng, được phong là Nhập nội Đại Đô đốc, Phiêu kị Thượng tướng quân, Đặc Tiến Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ti, Thượng trụ quốc, tước Thượng Hầu. Nhưng chỉ đến cuối năm 1437, ông cũng bị buộc phải tự tử, gia sản bị tịch thu và con gái ông là Huệ phi Lê Nhật Lệ bị giáng xuống hàng tu dung. Nguyên do là tháng 11-1437, có người cáo giác Đại đô đốc Lê Ngân thờ Phật Quan Âm trong nhà để cầu mong con gái mình là Huệ phi được vua yêu.

Vua ngự ra ở cửa Đông thành, sai thái giám Đỗ Khuyển dẫn 50 võ sĩ lục soát nhà Lê Ngân, bắt được tượng phật và các thứ vàng bạc, tơ lụa. Ngày hôm sau, Lê Ngân vào chầu, bỏ mũ ra để tạ tội. Vua sai bắt nô tì nhà Lê Ngân để tra hỏi, bắt ông tự chết ở nhà, tịch thu gia sản, giáng Huệ phi Nhật Lệ, con gái Lê Ngân làm tu dung. Mụ đồng Nguyễn thị bị đày ra châu xa. Thầy phù thủy Trần Văn Phương bị đồ làm lính ở phường nuôi voi. Mãi đến năm 1453, nhân kỳ đại xá, vua Lê Nhân Tông mới sai cấp cho con ông 100 mẫu ruộng để lo hương hỏa cho ông. Năm 1484, vua Lê Thánh Tông truy tặng ông hàm Thái Bảo, tước Hoằng Quốc Công.

Lời bàn:

Theo sử cũ còn lưu truyền đến ngày nay, dưới thời trị vì của vua Lê Thái Tông, cả 2 vị khai quốc công thần là Lê Sát, Lê Ngân và tuy đều là cha vợ của vua nhưng lần lượt bị sát hại khi đang ở đỉnh cao của quyền lực - Tể tướng. Và trong 2 vụ án này, bản án dành cho Lê Ngân đặc biệt ly kỳ và đầy oan khuất. Các sử gia đương thời cũng như ngày nay cho rằng, tội danh của Lê Ngân là kỳ lạ nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Bởi vì ông “vướng” vào tội không phải là phản loạn, cũng không phải là có sự lạm quyền như Lê Sát, mà là tội “mê tín dị đoan”. Và với tội danh không có vào thời ấy, nhưng cuối cùng Lê Ngân vẫn đành phải tự kết liễu cuộc đời đầy võ công hiển hách của mình bằng cách treo cổ. Toàn bộ gia sản của ông bị tịch thu.

Mê tín dị đoan là niềm tin vào một hiện tượng xảy ra là hậu quả của một hiện tượng khác, trong khi thật ra giữa chúng không hề có mối liên hệ nhân quả. Trong thực tế, người ta thường làm hoặc tránh làm một hành động nào đó để cho một sự việc khác xảy ra hoặc không xảy ra, trong khi hành động này không tạo thành hay sinh ra bởi sự việc đó. Vì thế, theo luật pháp ngày nay, chỉ trừ khi người nào hành nghề mê tín dị đoan gây tổn hại sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản... cho người khác và đã được tòa án tuyên phạt với bản án đã có hiệu lực, thì người đó mới phải chịu tội. Còn vào thời ấy, một khi cả nhà vua và triều đình đã không muốn ông sống nên ghép vào tội “đại nghịch” thì có trời cũng không thể cứu. Vậy mới hay rằng thế nào là “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung...”.

  • Từ khóa
110273

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu