
* LÊ QUÝ ĐÔN sinh năm Bính Ngọ - 1726: Ông là nhà văn hóa lớn thời Hậu Lê. Quê làng Duyên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam, tỉnh Thái Bình. Ông xuất thân trong gia đình khoa bảng lâu đời. Thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh, có trí nhớ phi thường, được người đương thời xem như thần đồng. Đỗ giải nguyên (1743), đỗ nhất giáp nhị danh tiến sĩ (1752). Ông được bổ dụng Thị độc tòa Hàn Lâm, Sung tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1760 ông làm Phó sứ đi Trung Quốc. Sau chuyển về kinh làm nhiều chức: Hữu thị lang bộ Công, Bồi tụng, Hành tham tụng... Ông mất ngày 2-6-1784 khi tại chức, thọ 58 tuổi. Công trình trước tác, sáng tác của ông gồm một thư tịch đồ sộ về nhiều bộ môn: Lịch sử, Địa lý, Văn hóa, Ngôn ngữ học, Triết học... và một số thơ phú bằng chữ Nôm.
* NGÔ THÌ SĨ sinh năm Bính Ngọ - 1726: Ông là nhà văn hóa lớn. Quê ông ở xã Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam, tỉnh Hà Tây. Năm ông 10 tuổi thì cha qua đời. Ông được ông nội nuôi ăn học rất nghiêm khắc. Năm 18 tuổi ông đậu giải nguyên khoa thi hương. Mãi đến năm 40 tuổi (1766) ông mới đậu hoàng giáp. Năm 1767 ông được bổ chức Hiến sát Thanh Hoa (tức Thanh Hóa ngày nay). Trong đời làm quan, Ngô Thì Sĩ nêu tấm gương không tham lam vơ vét để mang tiếng xấu muôn đời. Vợ ông không thèm tiền đút lót mà làm hại thanh danh của chồng. Năm 1770, ông được giao làm Tham chính ở Nghệ An. Khi coi thi, do có lầm lẫn nhưng chủ yếu do có bè phái gièm pha ganh ghét nên ông bị triều đình cách chức. Trở về làm dân, ông đóng cửa viết sách. Năm 1774, ông được chúa Trịnh triệu về kinh làm Hiện lý viện Hàn Lâm, kiêm Hiệu chính Quốc sử. Sau thăng Thiệm đô Ngự sử, rồi làm Đốc trấn Lạng Sơn. Ông ở đây cho đến năm Canh Tý - 1780 thì qua đời, thọ 54 tuổi.
* PHAN HUY ÍCH sinh năm Canh Ngọ - 1750: Ông là danh sĩ cuối đời Hậu Lê, quê xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Con của tiến sĩ Phan Huy Cận, con rể Ngô Thì Sĩ, em rể Ngô Thì Nhậm. Ông đỗ giải nguyên (1771), đỗ hội nguyên (1775), đỗ khoa Ứng chế (1776). Được bổ làm Hàn Lâm thừa chỉ, sau về triều làm Thiên sai Tri hình ở phủ chúa Trịnh. Năm 1788, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần thứ hai, ông được vua Quang Trung mời về Phú Xuân làm Tả thị lang bộ Hộ. Năm 1790, ông cùng sứ bộ đi sứ nhà Thanh. Năm 1792, ông được thăng Thị tụng Ngự sử ở Tòa nội các. Khi nhà Tây Sơn mất, ông vào Sài Sơn ở ẩn. Năm 1814 về Thiên Lộc dạy học. Ông mất năm Nhâm Ngọ - 1822, thọ 72 tuổi.
* NGUYỄN ÁNH sinh năm Nhâm Ngọ - 1762, là con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân và bà Nguyễn Thị Hoàn. Ông là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Khi còn nhỏ, Nguyễn Ánh có tên khác là Nguyễn Phúc Chủng, Nguyễn Phúc Noãn, Nguyễn Phúc Ánh. Năm ông 4 tuổi, cha ông bị quyền thần Trương Phúc Loan bắt giam và chết trong ngục. Năm ông 9 tuổi (1771), khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ. Năm ông 13 tuổi (1775), chúa Nguyễn bị chúa Trịnh và quân Tây Sơn đánh kẹp từ hai mặt, ông cùng chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Quảng Nam rồi vượt biển vào Gia Định. Sau khi chiến thắng quân Tây Sơn, hoàn toàn chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế ngày 1-6 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1802). Để tượng trưng sự thống nhất Nam - Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long, Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long. Triều đại của vua Gia Long được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam.

* NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU sinh năm Nhâm Ngọ - 1822: Ông là danh sĩ, nhà thơ lớn và người yêu nước có tầm ảnh hưởng lớn ở Nam bộ thời bấy giờ. Quê làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là TP.HCM). Tổ tiên ông vốn ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông đỗ tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi (1843). Năm 1847, ông ra Huế học thêm chờ khoa thi Kỷ Dậu (1849). Bỗng được tin mẹ mất, ông trở về quê nhà chịu tang, dọc đường bị bệnh rồi mù mắt. Từ đó ông an phận ở Gia Định và dạy học. Nhân dân xưng tụng ông là Đồ Chiểu hay Tú Chiểu. Giặc Pháp xâm lược Gia Định, ông lui về ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre tiếp tục dạy học và bốc thuốc. Vì nhiệt tình yêu nước, ông liên hệ mật thiết với nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là, Lãnh binh Trương Định. Ông tích cực dùng văn chương để cổ vũ lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân. Ông mất năm Mậu Tý - 1888, thọ 66 tuổi.
* TRẦN VĂN GIÁP sinh năm Mậu Ngọ - 1898: Ông là nhà Thư mục học xuất sắc của Việt Nam. Quê ông ở Từ Ô, Thanh Miện, Hải Dương (nay thuộc xã Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương). Thuở nhỏ học chữ Hán với cha. Năm 17 tuổi dự kỳ thi hương năm Ất Mão (1915) và đã đỗ tam trường. Người anh là Trần Văn Ngoạn đem ông ra Hà Nội học tiếng Pháp. Tốt nghiệp tiểu học, ông thi vào sư phạm. Học một năm thì người anh mất, ông phải bỏ học để tự kiếm sống. Năm 1920, ông xin vào chép sách thuê ở trường Viễn Đông Bác cổ (EFEC). ở đây ông tranh thủ học thêm tiếng Pháp. Trong 6 năm làm việc, ông đã lập ra được một “Mục lục sách Trung Quốc ở thư viện trường EFEC” bằng tiếng Pháp. Năm 1927, vị giám đốc của trường đưa ông sang Pháp học. Ông đã tốt nghiệp trường Cao đẳng thực hành Sorbonne, khoa Thư mục thuộc Viện Hán học, Đại học Văn khoa Paris. Ngoài ra trong thời gian ở Pháp, ông còn học các môn khác như: Ngôn ngữ học, Ngữ âm học, Thư viện học... Trở về nước, ông được cử phụ trách kho sách Hán Nôm của EFEC. Ngoài việc đi dạy, viết báo, ông còn tham gia phong trào xóa nạn mù chữ theo chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là người đầu tiên tham gia xây dựng trường Cao học kháng chiến ở Phú Thọ và cũng là người dạy môn Lịch sử và Văn học. Năm 1948, ông dạy chữ Hán ở trường Hùng Vương. Năm 1956, dạy Trung văn ở trường Trương Vương. Năm 1957, ông được phân công tiếp quản cơ sở EFEC. Trần Văn Giáp đã dành nhiều thời gian để biên soạn cuốn “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu Văn học và Sử học” (2 tập) và nhiều tác phẩm khác. Ông được tôn vinh là cây đại thụ, là nhà Thư mục học lớn nhất Việt Nam của thế kỷ XX. Ông mất năm Quý Sửu - 1973 tại Hà Nội, thọ 75 tuổi.
* TRẦN TẾ XƯƠNG sinh năm Canh Ngọ - 1870: Nhà thơ trào phúng nổi tiếng của Việt Nam. Ông đỗ tú tài năm 1894, thường gọi là Tú Xương. Quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Dù thi hương ông chỉ đỗ tú tài năm 24 tuổi, nhưng ông nổi tiếng am hiểu văn học, nhất là thơ trào phúng có sắc thái độc đáo. Nhà nghèo sống đạm bạc, bình dị, ông có lòng yêu nước, có tiếng thảo. Ông mất đột ngột vào năm Đinh Mùi - 1907, hưởng dương 37 tuổi.

* NGUYỄN BÌNH sinh năm Bính Ngọ - 1906: Ông là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyễn Bình có tên thật là Nguyễn Phương Thảo, quê ở thôn Yên Phú, xã Tịnh Tiến (nay là xã Giai Phạm), huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Thời trẻ, ông lên Hải Phòng làm thủy thủ trên tàu viễn dương chạy tuyến Việt Nam - Pháp. Được Trần Huy Liệu vận động, ông tham gia cách mạng, gia nhập Việt Nam quốc dân Đảng, phụ trách quân sự. Năm 1936, ông đổi tên thành Nguyễn Bình, với ý nghĩa “Bình thiên hạ”, chính thức ly khai Việt Nam quốc dân Đảng. Khi thực dân Pháp đánh chiếm rộng ra toàn Nam bộ, Nguyễn Bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử vào Nam lo việc thống nhất các lực lượng vũ trang. Ngày 20-1-1948, ông được Chính phủ phong quân hàm Trung tướng và cử làm Tổng chỉ huy chiến trường Nam bộ. Khi Bộ Tư lệnh Nam bộ được thành lập vào tháng 10-1948, ông được làm Tư lệnh. Ông còn là Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam bộ, Ủy viên Quân sự Nam bộ. Ngày 29-9- 1951, theo yêu cầu của Trung ương, ông lên đường ra Bắc nhận nhiệm vụ mới. Trên đường đi, ông bị quân Pháp phục kích và hy sinh tại xã Srê Dốc, huyện Sê San, tỉnh Xtung Treng, trên đất Campuchia.

* NGUYỄN BÍNH sinh năm Mậu Ngọ - 1918: Ông là nhà thơ. Quê làng Thiện Vịnh, xã Đồng Nội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bảng, tỉnh Nam Định. Năm 1937, tập thơ của ông “Tâm hồn tâm” được giải thưởng Tự lực Văn đoàn. Từ đó thơ ông in nhiều trong các báo xuất bản ở Hà Nội. Năm 1943, ông vào Nam tham gia kháng chiến chống Pháp, phụ trách Hội Văn hóa cứu quốc tỉnh Rạch Giá, Phó chủ tịch Tỉnh hội Việt Minh tỉnh Rạch Giá. Sau về công tác ở Quân khu 8. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1958, ông về cư trú ở Nam Định, công tác tại Ty Văn hóa Thông tin Nam Định. Năm 1964, ông theo cơ quan về sơ tán ở huyện Lý Nhân. Ông đột ngột lâm bệnh và mất ngày 20-1 năm Bính Ngọ -1966, hưởng dương 48 tuổi.
Kim Ngọc

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026