Thứ 2, 20/05/2024 09:00:28 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 07:50, 11/08/2013 GMT+7

Đổi họ để đi thi

Chủ nhật, 11/08/2013 | 07:50:00 119 lượt xem

Đào Duy Từ quê gốc ở làng Hoa Trai, nay thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Bố là Đào Tá Hán, trước làm lính cấm vệ trong triều, thời Lê - Trịnh. Một hôm, nhân lúc nổi hứng, Tá Hán đã sáng tác bài thơ ca ngợi chúa Trịnh như sau:

Trang quốc sử ai bằng Trịnh Kiểm

Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu

Thẳng đường rong ruổi vó câu

Phù Lê, diệt Mạc trước sau một lời...

Tá Hán liền bị quy là phạm thượng, trong thơ dám nói cả tên húy của chúa là Trịnh Kiểm. Ông bị khép vào tội phạm thượng và bị phạt đánh đòn 20 roi rồi bị đuổi về nhà làm dân thường. Nhờ có tài đàn hát nên Tá Hán bèn đi theo một gánh hát để kiếm sống và ít lâu sau đã trở thành kép hát tài giỏi, nổi tiếng khắp vùng. Có lần, gánh hát đến diễn ở làng Ngọc Lâm trong huyện. Đào Tá Hán trọ trong nhà vị tiên chỉ của làng này là Vũ Đàm. Ông tiên chỉ họ Vũ có cô cháu gái là Vũ Thị Kim Chi đem lòng yêu Tá Hán. Lúc đầu Tá Hán sợ phận mình nghèo khổ, khó kết thành vợ chồng. Nhưng sau khi nghe người nhà vị tiên chỉ thuyết phục rằng cô Chi có sẵn vốn liếng làm ăn, không phải lo nghèo chẳng nuôi nổi vợ, nên Tá Hán nghe theo. Và họ làm lễ thành hôn rồi mua đất, dựng nhà ở Hoa Trai, sau hơn một năm thì sinh ra Đào Duy Từ.

Khi Duy Từ lên năm, chẳng may bố bị bệnh mất. Người mẹ chịu ở góa, một mình ngược xuôi tần tảo quyết nuôi con ăn học. Duy Từ tỏ ra rất sáng dạ, lại ham mê đèn sách, báo trước khả năng có thể thành đạt trên bước đường cử nghiệp. Thế nhưng số phận thật oái oăm! Theo luật lệ của triều đình bấy giờ, thì con cái những người làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học của con, bèn thu gom vay mượn tiền bạc đến đút lót cho viên xã trưởng làng Hoa Trai là Lưu Minh Phương, để nhờ đổi họ Đào của con theo cha thành họ Vũ của mẹ, mong sao Duy Từ được dự kỳ thi Hương sắp tới. Viên xã trưởng thấy người vợ góa của Đào Tá Hán còn nhan sắc, nên nhận lời và ra điều kiện nếu xong việc thì phải lấy y.

Khoa thi Hương năm 1593, Đào Duy Từ đi thi và đã đỗ Á nguyên (thứ hai). Ông được mẹ khuyến khích dự tiếp kỳ thi Hội. Lúc này Duy Từ mới 21 tuổi. Thấy việc đổi họ cho Duy Từ đi thi đã trót lọt, xã trưởng họ Lưu bèn đòi bà Kim Chi thực hiện giao ước tái giá về làm vợ mình. Bà Chi cứ lần chần, chối khéo, với lý do con mới thi đỗ, mẹ làm thế sẽ khó coi...

Viên xã trưởng tức giận, đem chuyện trình bày với tri huyện Ngọc Sơn, vốn là chỗ thân quen, để nhờ áp lực quan trên bắt bà mẹ Duy Từ phải thực hiện giao ước. Viên tri huyện biết chuyện liền lập tức mật báo lên trên. Lúc này Duy Từ đang dự kỳ thi Hội. Bài thi Đào Duy Từ làm rất hay, chỉ có một điểm lập luận chưa vừa ý chúa, nên quan chủ khảo là Thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang còn cân nhắc.

Giữa lúc đó thì có tin “sét đánh” ập đến lệnh triều đình truyền xuống đòi xóa ngay tên Vũ Duy Từ, hủy bỏ bài thi, lột hết mũ áo được ban, bắt ngay để tra xét. Đồng thời gửi trát về cho tri huyện Ngọc Sơn trừng trị những kẻ liên đới.

Luật lệ thời đó quy định xử phạt rất nặng những ai dám phạm vào quy chế thi cử. Sắc chỉ vua Lê về các kỳ thi Hương đã ghi: Nếu người nào mà bị nghi gian thì bắt giữ đích thân đem việc tâu lên để trên xét. Vì thế, ngay sau đó Đào Duy Từ đã bị giam giữ, xét hỏi.

Ở quê, bà Vũ Thị Kim Chi cũng không tránh khỏi sự truy xét. Bà vừa lo cho tính mạng của con, vừa oán giận sự khắc nghiệt, bất công của triều đình, nên đã phẫn uất đi đến tự tử. Duy Từ biết tin mẹ mất, nhưng không được về chịu tang, thương cảm quá mà đổ bệnh phải nằm chữa trị hết mấy tháng trời mới khỏi.

Lời bàn:

Cứ theo nội dung của giai thoại trên thì những quy định khắc nghiệt của chế độ phong kiến ngày xưa đã đẩy những con người thấp cổ bé họng, những người không có chỗ đứng trong xã hội ngày càng bị bần cùng hóa. Ví như cha của Đào Duy Từ chỉ vì khen không đúng cách, không đúng phép nên bị đòn đau và bị đuổi khỏi quân ngũ. Và cũng từ cái họa ấy đã kéo lây sang Đào Duy Từ, một người có thực tài nhưng đã bị xóa tên trong bảng đề danh, chỉ vì có cha làm đào hát. Vâng, lẽ đời là thế, họa và phúc luôn đi liền nhau, có khi họa của người này nhưng lại là phúc của người khác. Bị đuổi khỏi trường thi là cái họa của Đào Duy Từ và cũng là cái họa của triều đình vua Lê - chúa Trịnh vì mất một nhân tài kiệt xuất, nhưng lại là ngọn nguồn cho cái phúc của nhà Nguyễn ở Đàng Trong.

Điều đáng buồn là cái xấu của người xưa đã được không ít hậu thế ngày nay làm theo. Đó là việc ở đâu đó khi tuyển chọn nhân viên, họ chỉ chú trọng vào lý lịch, nhất là những đối tượng càng là con ông cháu cha thì càng tốt, chứ không căn cứ vào sự học hay thực tài của người đi xin việc. Nếu người đi xin việc có bao thư càng dày thì lại càng tốt hơn nữa. Vâng, đó là cái phúc của người đi xin việc, nhưng lại là đại họa cho xã hội về sau.                   

N.N

  • Từ khóa
109441

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu