Thứ 2, 20/05/2024 02:22:33 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 07:54, 05/03/2014 GMT+7

Giai thoại về một bài thơ

Thứ 4, 05/03/2014 | 07:54:00 394 lượt xem

Nguyễn Phúc Tần là vị chúa Nguyễn thứ tư của nhà Nguyễn. Ông ở ngôi từ năm 1648 đến 1687. Nguyễn Phúc Tần là con thứ của Thượng vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648). Năm Mậu Tý (1648), khi Nguyễn Phúc Lan đột ngột qua đời, Nguyễn Phúc Tần mời chú là Nguyễn Phúc Trung lên gánh vác việc nước, xong ông này từ chối. Nguyễn Phúc Tần lên ngôi ở tuổi 29, thường được gọi là Hiền vương. Quần thần tôn ông làm Tiết chế Thủy bộ Chư dinh kiêm Tổng nội ngoại Bình chương Quân quốc Trọng sự Thái bảo Dũng Quận công.

Khi lên ngôi, chúa rất trọng dụng 2 tướng giỏi là Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến, nhờ vậy quân Nguyễn nhiều lần vượt qua được sông Gianh tiến ra Đàng Ngoài. Năm 1656, sau 2 năm tiến quân ra Bắc, quân Nguyễn đã chiếm được 7 huyện của Nghệ An. Sau đợt tấn công đó, quân Nguyễn còn chiếm đóng đất Nghệ An 5 năm. Về sau, Nguyễn Phúc Tần tin yêu Nguyễn Hữu Dật hơn Nguyễn Hữu Tiến nên các tướng sinh ra ganh ghét, bất hòa. Việc này đã làm ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Vì thế, năm 1660, quân Nguyễn bị bại trận và bị đẩy lùi khỏi Nghệ An, rồi Bắc Bố Chính, phải rút về bờ nam sông Gianh. Từ đó, Trịnh - Nguyễn cầm cự nhau trong nhiều năm, mãi tới năm 1672 mới đình chiến.

Trong cuốn sách “Đại Nam thực lục” có đoạn chép rằng: Lúc bấy giờ, Nam Bắc dụng binh, chúa bận tâm lo nghĩ, làm sao tìm được người hiền tài để ủy thác mọi việc ở biên cương. Một hôm, chúa nằm mơ thấy có thần nhân đến, đưa cho bài thơ như sau: Tiên kết nhân tâm thuận/ Hậu thi đức hóa chiêu/ Chi diệp kham tồi lạc/ Căn bản dã nan dao. Nghĩa là: Trước là tập hợp lòng người, Sao cho hòa thuận. Sau là thi hành đức hóa, sao cho rõ ràng. Cành và lá có khi còn rơi gãy. Rễ và gốc kia khó mà lung lay.

Khi tỉnh dậy, chúa Nguyễn Phúc Tần cho rằng bài thơ ấy có chữ thuận và chữ chiêu ứng với Thuận Nghĩa và Chiêu Vũ. Bấy giờ, Nguyễn Hữu Tiến là Thuận Nghĩa Hầu, Nguyễn Hữu Dật là Chiêu Vũ Hầu, cho nên việc binh thì nên bàn trước với hai người này.

Tháng 3 (năm Ất Mùi, 1655 - ND), chúa sai Nguyễn Hữu Dật đi tuần ở biên giới. Nguyễn Hữu Dật đến dinh Bố Chính, nắm rõ tình hình. Khi về, chúa triệu đến hỏi, ông đáp:

- Thần có một kế, nếu theo thời có thể bắt Trịnh Đào dễ như trở bàn tay.    

Chúa hỏi kế gì, Nguyễn Hữu Dật liền đáp rằng:

- Bao năm nay dụng binh mà quân ta chưa từng tiến ra Bắc. Nay, thần xin chia quân làm 3 đạo. Thượng đạo thì tiến lên trước, đánh vào Tất Đồng. Trung đạo thì tiếp ngay sau để làm thanh ứng. Trịnh Đào ở đất Hà Trung, nhận tin này thì thế nào cũng đoán chắc là ta chỉ đánh vào Tất Đồng mà thôi, cho nên sẽ không bỏ thành lũy mà đi cứu viện. Ta nhân đó, cho quân hạ đạo tiến đến Hoành Sơn để đánh úp Lê Hữu Đức rồi thừa thế mà cướp lấy dinh Hà Trung. Đó là kế điệu hổ li sơn, dẫn xà nhập huyệt (nghĩa là lôi con cọp ra khỏi rừng, đưa con rắn vào hang), đánh một trận mà đã có thể toàn thắng.

Nguyễn Phúc Tần nghe vậy mừng và nói:

- Khanh bàn việc binh, màu nhiệm như thần, dù là Tử Phòng (tức là Trương Lương, danh tướng của nhà Hán ở Trung Quốc) hay Bá Ôn (tức Lưu Cơ, người đã giúp Minh Thái Tổ thống nhất Trung Quốc thời nhà Minh) cũng không thể hơn được. Nguyễn Hữu Dật lại xin đặt các hỏa đài làm hiệu ở các cửa biển Quảng Bình, để tiện việc báo tin biên cương cho chóng và xin dựng kho Trường Dục để chứa lương thực. Ngoài ra, ông còn xin hạ lệnh cho sĩ tốt các dinh ở Quảng Bình và Bố Chính chuyên lo chỉnh đốn quân nhu để đợi lúc cần đến thì xuất ra. Chúa đồng ý tất cả và cử Nguyễn Hữu Tiến làm Tiết chế, Nguyễn Hữu Dật làm Đốc chiến.

Lời bàn:

Vẫn biết rằng đã là giai thoại thì không ai biết nó có được bao nhiêu phần trăm sự thật. Tuy nhiên, vì thời cuộc, vì giang sơn, xã tắc mà người làm vua, chúa lại có thịnh tình mà gượng ép lời văn cho hợp với sự đời trôi chảy, thì vẫn còn hơn lấy cái uy quyền của bậc quân vương để bắt ép sự đời, bất chấp gượng gạo, miễn sao cho hợp với sự trôi chảy của lời văn thì khó được người đời chấp thuận mà lưu lại hậu thế.

Vào lúc đó, Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến được chúa Nguyễn Phúc Tần tin dùng như vậy là hợp lẽ, đúng địa chỉ. Bởi lẽ trong triều thần của chúa Nguyễn khi đó không ai văn võ song toàn bằng hai người này. Hơn nữa, cả Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến đều là người có tấm lòng trung với chúa Nguyễn. Tuy nhiên, người xưa có câu rằng, làm bạn với vua như làm bạn với hổ. Nếu như cả hai người trong phút mơ màng mà quên đi thân phận bề tôi của mình và cũng mơ giấc mơ của chúa thì ắt có ngày phải trả giá. Và mong rằng, hậu thế đừng ai xử lý công việc theo cảm tính hay tình cảm cá nhân bắt nguồn từ một giấc mơ như Nguyễn Phúc Tần trong giai thoại trên.         

K.N  

  • Từ khóa
109508

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu