Thứ 2, 20/05/2024 05:41:49 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 14:41, 24/09/2013 GMT+7

Trí tuệ Trần Nhật Duật

Thứ 3, 24/09/2013 | 14:41:00 230 lượt xem

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật sinh tháng 4 năm Ất Mão (1255). Ông là con trai thứ sáu của vua Trần Thái Tông và là em của vua Trần Thánh Tông. Ông cũng là anh em cùng cha khác mẹ với Trần Ích Tắc (người đã bỏ trốn sang Trung Quốc trong cuộc đại chiến với quân Nguyên Mông và về sau bị vua Trần Thánh Tông ra chỉ dụ gọi là Ả Trần). Theo sử sách, từ nhỏ ông đã nổi tiếng hiếu học và “sớm lộ thiên tri, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người”.

Trần Nhật Duật nổi tiếng là người hiểu nhiều biết rộng. Ngoài việc thông thạo nhiều ngoại ngữ, ông còn có sự hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, Nhật Duật chẳng những sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó, kể cả phong tục tập quán của họ. Đối với các dân tộc trong nước, Nhật Duật không những hiểu tiếng mà còn hiểu cả tâm tư người khác. Ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được triều đình nhà Trần giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan.

Tất cả các sử sách còn lưu truyền đến ngày nay về nhà Trần đều không thấy ghi chép về chuyện quý tộc họ Trần đi thi, nhưng sở học của những nhân vật như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nguyên Đán, Trần Nhật Duật ... thì quả là đáng phục vô cùng. Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn viết về sở học của Trần Nhật Duật, người được coi là nhà ngôn ngữ học lỗi lạc của Đại Việt ở cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, như sau:

Trần Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài. Ông thường cưỡi voi đến chơi ở thôn Bà Già. Thôn này có từ hồi Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Vua Lý bắt được người Chiêm rồi cho về ở đấy, theo tiếng Chiêm mà đặt tên thôn là Đa-gia-ly. Về sau, người đời gọi sai thành thôn Bà Già. Trần Nhật Duật đến chơi, có khi đến ba bốn ngày mới về.

Trần Nhật Duật lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống, ở lại lâu mới về. Người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến nhà ông. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần, chuyện trò suốt buổi, nếu là người Chiêm hay người các dân tộc thì theo phong tục của họ mà ông tiếp đãi.

Vào đời vua Trần Nhân Tông (1278-1293) trị vì, sứ thần Mã Lai sang cống, nhưng triều đình không tìm được người phiên dịch, chỉ có Trần Nhật Duật là dịch được. Có người hỏi ông vì sao biết tiếng nước họ, ông trả lời rằng: Thời vua Trần Thánh Tông (1258-1278), sứ nước ấy sang, nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ.

Vua Trần Nhân Tông cũng đã có lần nói với ông rằng: Chú Chiêu Văn (chỉ Trần Nhật Duật là chú ruột của vua Trần Nhân Tông) có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc nên mới giỏi tiếng các nước đó.

Hồi làm Tể tướng, ông thường qua nhà một người Tống là Trần Đạo Chiêu, nói chuyện với nhau hàng giờ không mỏi. Vua Trần Anh Tông biết chuyện, nói với ông rằng: Tổ phụ là Tể tướng (Nhật Duật vai ông của Anh Tông nên Anh Tông gọi là tổ phụ), Đạo Chiêu tuy là người Tống, nhưng đã có Hàn lâm phụng chỉ (chức quan lo phiên dịch) há nên ngồi nói chuyện với hắn.

Theo lệ của nhà Trần, sứ Nguyên sang thì triều đình phải sai người biết tiếng để phiên dịch. Tể tướng không được nói chuyện trực tiếp với họ, làm thế để lỡ có gì sai sót thì đổ lỗi cho người phiên dịch. Đối với Trần Nhật Duật thì không thế, khi nhà vua tiếp sứ Nguyên, ông thường nói chuyện thẳng với họ mà không cần người phiên dịch. Khi sứ xong việc, về nơi nghỉ ngơi thì ông dắt tay cùng về, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn quen biết. Vì thế, có lần sứ Nguyên đã hỏi ông rằng: Ông là người Chân Định (vùng thuộc tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc ngày nay) tới làm quan ở đây chớ gì?

Có lẽ vì hình dáng và tiếng nói của ông giống người Chân Định, nên Trần Nhật Duật ra sức cãi lại nhưng họ vẫn không tin.

Lời bàn:

Vào cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14 mà đã có người giỏi ngoại ngữ như Trần Nhật Duật thì trên thế giới hiếm có ai so bằng, quả là đáng kính, đáng khâm phục và nể trọng. Vì những ai đã từng học ngoại ngữ mới biết học ngoại ngữ khó như thế nào. Học một lúc thông thạo cả tiếng Trung Quốc, Mông Cổ, Chăm, Mã Lai... và cả tiếng các dân tộc ít người trong nước như Trần Nhật Duật lại càng khó hơn nhiều. Hơn nữa, học đến độ nói tiếng nước ngoài chẳng khác gì người nước ngoài và còn khiến người nước ngoài không thể tin đó là người Việt thì quả là cổ kim chẳng mấy ai được như ông.

Vào thời ấy, với tước Đại vương, chức Tể tướng, có lẽ nói về sự giàu có chắc không ai bằng ông, sang cũng chẳng ai bằng ông và bận việc quốc gia đại sự chắc cũng chẳng mấy ai như ông. Tuy vậy chẳng những ông vẫn ham học, mà còn dám học và học giỏi. Vâng, chỉ riêng với điều này ở Trần Nhật Duật cũng đáng để hậu thế có biết bao người phải suy ngẫm và hổ thẹn.

N.H

  • Từ khóa
109455

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu