Thứ 5, 09/05/2024 03:58:00 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 16:24, 07/05/2019 GMT+7

Văn võ song toàn

Thứ 3, 07/05/2019 | 16:24:00 559 lượt xem

BP - Vào những năm cuối thế kỷ XVI, tình hình Bắc bộ chưa ổn định do vây cánh họ Mạc còn nhiều. Từ năm 1593, Hoàng Đình Ái tiếp tục ra quân đánh dẹp các lực lượng họ Mạc chống đối, tiêu diệt nhiều cánh quân Mạc. Dưới thời Mạc Kính Điển cầm quân, quân Mạc rất mạnh và thường chiếm ưu thế trước quân Lê. Mạc Kính Điển cùng tướng Nguyễn Quyện nhiều lần cầm quân vào đánh Thanh Hóa, Nghệ An. Tháng 6-1598, Hoàng Đình Ái đến thành Lạng Sơn cử Đô đốc Lâm quận công Trần Phúc đem 1.000 quân đến châu Thoát Lãng bắt được con trai Mạc Kính Cung, còn Mạc Kính Cung chạy sang Long Châu (Trung Quốc).

Sau khi Mạc Kính Điển chết (1580), nhà Mạc ngày một suy yếu, quân Nam triều ngày càng thắng thế. Đến năm 1592, Hoàng Đình Ái theo Trịnh Tùng đánh bại quân Mạc nhiều trận lớn nữa, chiếm được kinh thành Thăng Long. Vua Mạc là Mậu Hợp bỏ trốn không lâu thì bị bắt và bị giết. Thân tộc họ Mạc chạy lên phía Bắc tiếp tục cầm cự. Hoàng Đình Ái trở thành một trong các công thần có công lớn nhất trong việc giúp nhà Lê trung hưng, khi đó ông đã 66 tuổi.

 

Tháng 3-1598, Hoàng Đình Ái lại đem quân đánh dẹp tàn quân Mạc ở Lục Ngạn, bắt được Mạc Kính Luân, thu 35 chiến mã và nhiều khí giới. Năm 1601, con trai của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung mang quân đánh Hải Dương. Lão tướng Hoàng Đình Ái lúc đó đã 75 tuổi, vẫn nhận lệnh cầm quân đi dẹp. Ông đánh đuổi Kính Cung chạy lên Lạng Sơn. Tháng 3-1597, nhà Minh sai ủy quan là Vương Kiến Lập đến trấn Nam Giao đòi lễ cống và hội khám (diễu binh). Ngày 28-3, vua Lê Thế Tông thân đốc hữu tướng Hoàng Đình Ái, Thái úy Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu cùng 5 vạn quân đến trấn Nam Giao đề phòng khi mở cửa quan, hội khám quân Minh tràn sang giúp nhà Mạc lưu vong bắt vua, hiếp tướng. Khi ấy, Hoàng Đình Ái đã tâu với chúa Trịnh Tùng rằng:

Nhà Minh chuẩn bị chinh phục nước ta, có thể chỉ là để diễu võ dương oai, khiến nước ta phải sợ, nhưng cũng có thể muốn thực hiện mưu đồ mà xưa kia tổ tiên họ bị thất bại. Xin tiết chế cho lệnh được tùy nghi đối phó. Trịnh Tùng liền trao cho Hoàng Đình Ái thanh gươm “An quốc” tại cửa ải Nam Quan, ủy quan Vương Kiến Lập cùng tàn quân Mạc trông thấy quân Lê đông đúc, binh tướng oai hùng, lẫm liệt khí thế phải lẳng lặng từ bỏ những ý đồ đánh chiếm. Cuộc hội khám cử hành đúng nghi lễ, nhà Minh phải công nhận nhà Lê, bỏ nhà Mạc.

Sau khi cáo lão từ quan, ông trở về sinh sống ở vùng đất thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Ông đã chiêu dụ nhân dân trở lại làm ăn sinh sống, khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, xin vua cấp thóc giống, miễn thuế 3 năm, mở mang học hành cho con trẻ... Do đó, miền Hải Dương dần dần trở lại bình yên. Cuối năm 1607, ông ốm nặng. Trước khi qua đời, chúa Trịnh Tùng thăm hỏi ông: Hữu tướng quốc một thời công lao dồn lại to hơn núi Thái, Hữu tướng có muốn được gia ơn gì cho con cháu? Ông trả lời: Người ta sinh ra ở đời, ai có bổn phan người ấy, công lao nên tự lập, chức tước chớ lạm phong.

Ông mất ngày 15-12-1607, tại nội thành Thăng Long, thọ 81 tuổi. Vua Lê Kính Tông ra chiếu chỉ cả nước để tang 5 ngày, triều đình bãi triều 5 ngày, lấy dân 10 xã làm lính giữ phần mộ. Để nhớ công đức của ông, dân Mạc Xá, huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Dương đã lập đền thờ “Chiêu cảm Đại Vương”  thờ ông. Không chỉ nhà Lê đánh giá cao công trạng của ông mà vào thời nhà Nguyễn, vua Gia Long đã liệt ông vào hàng công thần Trung hưng bậc nhất, tôn là Kim Tử Vinh lộc đại phu. Năm 1823, vua Minh Mạng cho dựng miếu “Lịch đại đế vương” trong kinh thành Huế để thờ Thái tể Hoàng Đình Ái cùng các công thần Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, Trương Hán Siêu...

Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” nhận xét về ông như sau: Ông có học thức, thông binh pháp, cầm quân nghiêm chỉnh, trong thì giúp mưu, ngoài thì đánh dẹp, tự mình trải vài trăm trận, đánh đến đâu được đấy, làm cả tướng võ, tướng văn, không phân biệt thứ bậc, uy quyền, ưu đãi sĩ phu, giữ gìn pháp độ. Mọi người đều khen ông là giỏi... Với lòng quyết tâm, tài mưu lược, dũng cảm, ông đã giữ vững lòng tướng sĩ chống được giặc mạnh, cuối cùng đã chuyển thua hóa thắng, đổi nguy ra yên.

Lời bàn:

Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI-XVII thời Lê Trung hưng đã xuất hiện danh tướng Hoàng Đình Ái - một trong những nhân vật lịch sử được sử sách lưu truyền đến nay. Hoàng Đình Ái ra đời khi nước Đại Việt bị chia cắt trong thời chiến tranh Lê - Mạc. Khi ông lớn lên, vùng đất Thanh Hóa quê ông đã thuộc về nhà Lê. Hoàng Đình Ái đầu quân theo giúp nhà Lê Trung hưng và trở thành danh tướng trong cuộc chiến tranh này. Điều mà hậu thế ngày nay phải nể phục, tôn vinh ông là trong suốt cuộc đời binh nghiệp dường như Hoàng Đình Ái chưa bao giờ biết mùi thất bại.

Chính vì thế không chỉ có nhà Lê đánh giá cao công trạng của ông, mà vua Gia Long đã liệt ông vào hàng công thần Trung hưng bậc nhất, tôn là “Kim Tử Vinh lộc đại phu”. Năm 1823, vua Minh Mạng cho dựng miếu “Lịch đại đế vương” trong kinh thành Huế để thờ Thái tể Hoàng Đình Ái cùng các công thần Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, Trương Hán Siêu... Điều đọng lại sau giai thoại này là hậu thế hôm nay sống như thế nào cho xứng với công đức của các bậc tiền nhân.

 N.D

  • Từ khóa
110178

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu