Thứ 2, 20/05/2024 05:41:20 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 13:39, 17/12/2017 GMT+7

Mối tình ngang trái

Chủ nhật, 17/12/2017 | 13:39:00 126 lượt xem

BP - Vũ Khâm Lân thuở nhỏ có tên là Vũ Công Thận, người làng Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương (nay thuộc khu 13, phường Hải Tân, thành phố Hải Dương). Ông sinh năm 1703, không rõ mất năm nào. Năm Đinh Mùi (1727), triều Lê Dụ Tông, ông thi đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân lúc 25 tuổi. Kể từ đó, Vũ Khâm Lân bước vào chốn quan trường, từng được cử đi sứ Trung Quốc, lần lượt trải các chức: Đô ngự sử, Thượng thư, Tham tụng... Ở triều, ông dự bàn chính sự, ra ngoài ông giữ việc binh cơ, lập không ít công lao nên được ban tước Ôn Đình hầu rồi Ôn Quận công. Đương thời, ông có tiếng là người hào hiệp, khảng khái, gặp việc dám nói, dám làm. Bên cạnh đó, ông còn có tiếng về tài văn chương.

Năm Cảnh Hưng thứ 14, đời Hiến Tông (1753, Càn Long thứ 18 nhà Thanh), ông được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. Ông làm đến tham tụng rồi được phong chức Đô ngự sử. Dưới thời trị vì của vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Doanh, Vũ Khâm Lân từng làm tới chức Hữu Thị lang bộ Lại.

Minh họa: S.H

Ông để lại nhiều tác phẩm như “Phủ Sát bí mật” nhưng bị thất truyền. Trong bài ký “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký” viết về thân thế và sự nghiệp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ôn như hầu Vũ Khâm Lân có lời bình nổi tiếng: Tiên sinh có cái đức của thánh hiền, đáng dùng cho vương đạo, lại rơi vào thời bá đạo nên không được dùng. Tiếc thay! Sau khi ông mất, triều đình đã truy tặng ông hàm Thượng thư.

Theo gương ông, con trai Vũ Cơ cũng đỗ tiến sĩ khoa Quý Mùi (1763) và làm quan đến chức Hàn lâm Hiệu lý, Trấn thủ Lạng Sơn. Hiện nay, tại nơi ông ra đời còn lưu giữ 2 ngôi nhà được hậu duệ đời thứ 8 của ông là ông Vũ Văn Thản, cựu sĩ quan quân đội trông coi. Ngôi nhà ngang còn giữ chiếc giường mà gia đình gọi bằng tên cổ là “sàng”. Đây là một bằng chứng về tính liêm khiết của ông. Làm quan đầu triều nhưng của cải để lại chỉ là chiếc “sàng” bằng gỗ tầm thường, đóng kiểu dân dã. Ngôi nhà chính đã được trùng tu thành nhà thờ ông, còn giữ nguyên cột và kèo cũ.

Cho đến ngày nay, người dân trong vùng vẫn còn lưu truyền một giai thoại về cuộc tình của ông với một cô đào hát. Chuyện kể rằng, Vũ Khâm Lân vốn là con nhà nghèo, lại gặp cảnh mẹ kế con chồng nên ông phải bỏ nhà ra đi... Ông vừa làm thuê vừa học ở làng Dịch Vọng (huyện Từ Liêm) một thời gian thì gặp kỳ đình khai hội. Thấy quần áo của mình xuềnh xoàng quá nên đến đêm ông mới đi dự và cũng chỉ đứng nép bên cột đình xem hát mà thôi.

Trong phường hát có một đào nương trẻ đẹp, hát hay múa giỏi, bỗng chú ý đến ông. Sáng hôm sau, người con gái ấy tìm đến chỗ ông trọ học. Biết được hoàn cảnh của ông đang gặp khó, nàng tình nguyện mỗi tháng sẽ chu cấp tiền bạc, để ông theo đuổi việc bút nghiên. Quen lâu, đôi lần ông định cùng cô sống như chồng vợ, nhưng lần nào cũng đều bị cô khéo lựa lời từ chối...

Sau khi thi đỗ và vinh quy xong, cha ông bắt phải lấy vợ. Nhớ tới người từng cưu mang mình nên ông cứ chần chừ mãi. Sau mấy lần cố công tìm mà không gặp, ông đành phải vâng lời cha. Nghe đâu sau đó cô gái có tìm đến nhưng thấy ông đã lập gia đình, tự cho là duyên số không may rồi bỏ đi. Khoảng 20 năm sau, lúc này Vũ Khâm Lân đã là Quận công, tình cờ ông gặp lại người xưa trong một tiệc hát ở nhà bạn đồng liêu họ Đặng. Người đào nương năm nào bây giờ đã già đi nhiều, đang ở chung với mẹ và chưa gắn bó với ai. Thấy cảnh sống của nàng sa sút và hẩm hiu quá, Vũ Khâm Lân ngỏ lời xin được nuôi dưỡng cả hai. Nàng nghe theo nhưng đến khi mẹ mất thì nàng cũng bỏ đi mất dạng. Người ta không biết cô đào ấy tên gì, chỉ biết nàng họ Nguyễn.

Lời bàn:

Xuất thân trong một gia đình nghèo khó, hằng ngày phải đi làm thuê để kiếm sống nhưng Vũ Khâm Lân vẫn quyết chí dùi mài kinh sử và ông đã thành danh với học vị tiến sĩ. Khi ra làm quan, ông thể hiện rõ là người có lòng với giang sơn và trăm họ. Tuy nhiên, thời ông là thời bế tắc, chẳng phải riêng ông mà hầu như tất cả bậc khả kính lúc ấy cũng đành chịu khoanh tay làm ngơ trước thời cuộc. Và dẫu sao, ông cũng đã để lại cho hậu thế tấm gương về sự hiếu học.

Tiếc thay, một con người có tài nhưng tình duyên ngang trái. Mối tình của ông với cô đào hát thật đẹp, lãng mạn nhưng cũng là mối tình éo le bậc nhất trong sử. Vì thời ấy, xã hội phong kiến vốn coi những người làm nghề ca hát là “xướng ca vô loài”. Chẳng những không được trọng dụng mà người làm nghề này còn bị coi là đối tượng mua vui cho thiên hạ. Đào nương là những người dâm đãng, đồi bại, quyến rũ đàn ông, ham tiền thích của nên có tên gọi khác là kỹ nữ. Vào thời đại ấy không thể đổ hết lỗi cho Vũ Khâm Lân khi cả hệ thống xã hội đều coi xướng ca chẳng ra gì. Và dù tâm hồn họ trong sáng, tài năng tuyệt luân đến mấy thì họ cũng chỉ là những con tằm nhả tơ cho đời thêm vui, thêm đẹp chứ có mấy ai ghi nhận.

N.D

  • Từ khóa
109996

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu