Thứ 2, 20/05/2024 07:48:10 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 14:44, 24/10/2017 GMT+7

Bao Công thời Trần

Thứ 3, 24/10/2017 | 14:44:00 159 lượt xem
BP - Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Thì Kiến là người làng Cự Xạ, huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay là thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Vì mến tài của Trần Thì Kiến nên Trần Hưng Đạo đã giữ ông lại nhà làm môn khách và sau đó tiến cử ông lên vua Trần Nhân Tông, rồi được bổ nhiệm làm An phủ sứ phủ Thiên Trường, sau đó sang phủ Yên Ninh.

Thời đó chỉ những người được tin cậy đặc biệt mới giữ chức An phủ sứ Thiên Trường. Vì đây là nơi các vua Trần cho xây hành cung riêng và có thể sử dụng như kinh đô thứ hai khi cần thiết và chỉ những ai sau khi làm An phủ sứ Thiên Trường mới được thăng lên An phủ sứ Đại kinh sư. Như vậy, Trần Thì Kiến đã được sự tin cậy đặc biệt của cả nhà vua và triều đình.

Minh họa: S.H

Theo sử sách, ông có sở trường về khoa đoán quẻ Kinh dịch. Trước khi diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, nhà vua sai Trần Thì Kiến bói, được quẻ Dự biến sang quẻ Chấn là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả đúng như lời đoán của ông. Mùa thu năm niên hiệu Trùng Hưng thứ 2, quân Nguyên vào cướp nước ta lần thứ ba, vua lại sai ông bói và ông gieo được quẻ Quán biến sang quẻ Hoán, rồi đoán: Hoán nghĩa là tan, là điềm giặc tan. Sau quân Nguyên đến sông Bạch Đằng quả nhiên bị thất bại nặng nề phải tan chạy. Nhà vua khen tài của ông.

Về sau, ông còn được giao giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Trần, như: Kiểm pháp quan kiêm chức Đại An phủ sứ Kinh sư, Nhập nội hành khiển hữu gián nghị đại phu và cuối đời ông được thăng lên đến chức Tả bộc xạ - Tể tướng. Vào thời ấy, chức vụ Kiểm pháp quan của Trần Thì Kiến không phải ngẫu nhiên mà có. Trước hết, bởi tính thanh liêm hiếm có của ông.

Làm pháp quan lo về việc xử án, hình luật mà cương trực, ngay thẳng, xét đúng người, đúng việc thì dân trăm họ được nhờ. Còn như bóp tròn thành méo, nói có thành không thì cái nạn hình ngục là hậu quả nhãn tiền mà dân phải gánh. Chuyện kể rằng, lúc đang làm An phủ sứ Thiên Trường, có người trong hương nơi ông trị nhậm, nhân ngày giỗ đem biếu ông mâm cỗ. Trần Thì Kiến hỏi vì cớ gì mà biếu. Người ấy trả lời là vì ở gần trị sở nên đem biếu chứ không có ý gì khác. Tuy nhiên, mấy ngày sau khi biếu mâm cỗ giỗ, người ấy lại có việc đến kêu xin, nhờ vả. Khi người ấy trình bày việc vừa dứt, quan Thì Kiến liền móc họng mửa ra, ý là trả cỗ hôm trước không nhận, làm cho kẻ kêu xin muối mặt mà về, từ đó không dám ho he nhờ cậy nữa.

Bởi việc liêm của ông nên vua Anh Tông thăng làm Kiểm pháp quan. Mỗi khi có kiện tụng ông dùng lý lẽ mà bắt bẻ, việc đến thì tìm phương pháp để ứng phó. Vì thế, người đương thời đều khen ông là giỏi xét đoán kiện tụng, lại có câu khen: “Khả dĩ chiết ngục”, nghĩa là: Trong cương vị một quan tòa có khả năng phân tích hết mọi lẽ rồi mới đưa ra lời kết tội. Và ông được người đương thời gọi là Bao Công.

Sử thần Ngô Sĩ Liên thời Lê khi nói về trường hợp của ông, cũng tấm tắc khen: “Thì Kiến hành động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái tệ xin xỏ của người bấy giờ, cũng như Án Anh tằn tiện quá mức để uốn nắn cái thói xa xỉ tiếm lễ của Quản Trọng vậy. Nhờ có đức tính ấy, tháng 12 năm Mậu Tuất (1298), vua Anh Tông lại bổ dụng Trần Thì Kiến là Nhập nội Hành khiển hữu gián nghị đại phu.

Tuy nhiên, trong đời quan lộ, cũng có lúc Trần Thì Kiến gặp sóng gió. Đó là trong khi giữ chức Gián nghị đại phu, ông đã vô ý chứa giấu dân đinh nên bị bãi chức. Sau đó, vua nghĩ không phải là cố ý nên năm 1301, ông được vua xóa tội và cho giữ chức Tham tri chính sự, đến năm 1305, ông lại được vua cho giữ chức Tả bộc xạ (thời Trần coi tả, hữu bộc xạ là hữu tướng quốc, tức là thái tế - tể tướng). Mặc dù giữ nhiều chức vụ khác nhau nhưng Trần Thì Kiến luôn chứng tỏ là người thanh liêm, tận tụy, các quan đời sau coi ông là gương sáng để học tập. Vua Tự Đức đã viết một bài vịnh ngợi ca tài đức của ông.

Lời bàn:

Tiếc rằng, trải qua bao biến động lịch sử, thời gian, nên những sáng tác của ông chỉ còn lại duy nhất một bài thơ tặng sư Phổ Minh, chùa An Lãng. Bài thơ này được in trong bộ sách Thơ văn Lý - Trần (NXB Khoa học xã hội - 1977). Bài thơ có tựa đề “Đề tặng thiền sư Phổ Minh ở chùa An Lãng”. Mặc dù vậy nhưng với những đóng góp lớn lao trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên và tấm lòng tận trung với nước, liêm khiết, chính trực nên cuộc đời và sự nghiệp của Trần Thì Kiến đã được lưu danh sử sách. Hiện ông được thờ ở đền Cửa Ông cùng với một số danh tướng, công thần nhà Trần như Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư...

Thế mới hay rằng ở thời nào cũng vậy, làm pháp quan là người cầm cân nảy mực, lo việc xử án, giám sát việc thực thi và chấp hành pháp luật và nếu là người cương trực, ngay thẳng, xét xử đúng người, đúng việc thì dân trăm họ được nhờ. Còn nếu như ai đó bóp tròn thành méo, nói có thành không thì sẽ bỏ sót người, lọt tội và người dân sẽ phải chịu nỗi khổ vì gánh nặng cái án oan sai. Tấm gương về sự thanh liêm, tận tụy của Trần Thì Kiến đáng để đời sau tôn vinh, kính phục và học tập.

N.D

  • Từ khóa
109975

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu