Thứ 2, 20/05/2024 04:54:20 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 09:21, 20/08/2017 GMT+7

Lưu danh cùng sông núi

Chủ nhật, 20/08/2017 | 09:21:00 198 lượt xem

BP - Theo sách “Quốc triều chính biên toát yếu”, bà Châu Thị Vĩnh Tế (1766-1826), còn có tên khác là Châu Thị Tế, người cù lao Dài (cù lao Năm Thôn), nay thuộc xã Quới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Bà là trưởng nữ của ông Châu Huy (có sách chép là Châu Vĩnh Huy) và bà Đỗ Thị Toán. Vì bà có công tận tụy giúp đỡ chồng là Thoại Ngọc Hầu trong việc đào con kênh từ Châu Đốc ra đến Hà Tiên nên vua Minh Mạng lấy tên bà đặt tên cho kênh là kênh Vĩnh Tế.

Minh họa: S.H

Thời chúa Nguyễn ở đàng Trong, Nguyễn Văn Thoại theo mẹ rời làng An Hải (phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng ngày nay) di cư vào Nam sinh sống ở cù lao Dài nên đã gặp và cưới bà tại đây vào năm 1788. Bà nổi tiếng là người vợ hiền đức, tận tụy, đảm đang, đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp lừng lẫy của chồng. Bà còn là người có công xây dựng miếu Bà Chúa Xứ núi Sam - Châu Đốc.

Khi chồng bà là Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại, được vua giao trọng trách đào con kênh nối liền từ Châu Đốc đến Hà Tiên, bà đã tận tụy giúp chồng chăm lo công việc đại sự. Những lúc chồng bận việc công cán, bà đã thay chồng lãnh phần đôn đốc, trông coi việc đào kênh, tiếng nhân đức của bà được nhân dân truyền tụng. Bấy giờ trong dân gian có câu: Nước Nam trai sắc gái tài; Gương bà Châu thị lưu đời ngàn năm.

Năm 1816, khi thành Châu Đốc được đắp xong, Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh khi ấy là Lưu Phước Tường tâu lên, vua Gia Long xem địa đồ miền đất này liền truyền: Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy. Biết thế, nhưng vua chưa ra lệnh đào ngay vì ngại đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, nếu bắt làm xâu thêm khổ sở, lòng dân sẽ không yên. Đến tháng 9 (âm lịch) năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long mới cho lệnh đào kênh và công việc được bắt đầu khởi công vào ngày 15 tháng chạp năm ấy. Sách “Quốc triều chính biên toát yếu”, phần Chánh biên, chép: Việc đào kênh kéo dài trong 5 năm (1819-1824), huy động đến hàng vạn nhân công và từ đấy, đường sông lưu động, phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân buôn bán đều được tiện lợi vô cùng...”.

Để tuyên dương công trạng của vợ chồng bà và thể theo lòng dân mến mộ, vua Minh Mạng cho lấy tên chồng bà là Nguyễn Văn Thoại đặt cho con kênh “Thoại Hà”, núi “Thoại Sơn”, đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là “Vĩnh Tế Hà”, núi Sam là “Vĩnh Tế Sơn” và làng cạnh núi là “Vĩnh Tế Thôn”. Năm 1836, vua cho chạm hình tượng kênh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh, đỉnh đồng lớn nhất trong cửu đỉnh đặt tại Thế miếu ở Huế.

Về sau, Thoại Ngọc Hầu đã soạn bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn bi ký (bia chép núi Vĩnh Tế do vua đặc biệt ban tên) và đã dành cho bà những lời lẽ tốt đẹp như sau: “Năm trước đây, thần phụng mạng xem sóc việc đào kênh Đông Xuyên, vua đã lấy danh tước thần nêu lên bên bờ kênh núi Sập mà đặt tên núi Thoại. Đến nay, hoàng ân lại xét đến lòng thần, cho là biết tề gia hợp hòa khí, lại hạ cố đến vợ thần là Châu Thị Tế, có chút công lao, nên xuống lệnh ban cho tên núi Sam là Vĩnh Tế Sơn...”.

Về sau, ông Trần Hữu Thường đã dịch bi ký này thành thơ như sau: “Họ Châu tên Tế vợ tôi; Noi bà Thái Dĩ ỷ ôi khuyên chồng. Thờ trên siêng gắng một lòng; cũng nhờ chút giúp sửa xong nghĩa đời... Bề trên dùng núi sánh người; Sửa tên Vĩnh Tế ngàn ngày để vinh. Người nhớ núi ấy nêu danh; Tóc trâm móc gội thêm xinh khôn dò. Núi nhờ người đặt hiệu cho; Cỏ cây thêm sắc ơn vua thắm nhuần...”.

Thoại Ngọc Hầu và Châu Thị Tế được người dân An Giang cảm mến, nhớ ơn. Ở huyện Thoại Sơn, ngoài đền thờ, bia đá còn có khu du lịch mang tên Hồ Ông Thoại. Tại chân núi Sam có một làng mang tên Vĩnh Tế. Hai tiếng Vĩnh Tế đời biểu lộ sự nhớ ơn của nhân dân đối với ông bà bảo hộ Thoại... Nơi này còn có câu ca dao: Đi ngang qua cảnh núi Sam; Thấy lăng Ông Lớn hai hàng lụy rơi; Ông ngồi vì nước vì đời; Hy sinh tài sản không rời nước non; Nước kênh Vĩnh Tế lờ đờ; Nhớ ông Bảo Hộ dựng cờ chiêu an.

Lời bàn:

Kênh Vĩnh Tế bắt đầu đào vào tháng chạp năm 1819, xuất phát từ bờ Tây sông Châu Đốc, chạy song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia và kết thúc tại điểm nối tiếp với sông Giang Thành (thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang). Kênh được đào dưới sự chỉ huy của Thoại Ngọc Hầu và người trợ giúp đắc lực cho ông là bà vợ Châu Thị Vĩnh Tế. Chính vì thế, con kênh được triều đình nhà Nguyễn cho mang tên bà. Kênh Vĩnh Tế là công trình quy mô nhất thời bấy giờ, không những thể hiện tầm nhìn chiến lược của chính quyền nhà Nguyễn mà trên thực tế đã phát huy được vai trò và lợi ích to lớn của nó đối với chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại cũng như việc phát triển vùng biên viễn trên toàn khu vực phía tây nam từ Châu Đốc đến Hà Tiên.

Quan trọng hơn, kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như một công trình đánh dấu, xác lập chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam bộ. Cho đến ngày nay, con kênh này vẫn còn giá trị to lớn về các mặt trị thủy, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn. Kênh Vĩnh Tế không những là minh chứng cho chiến công vĩ đại trong sự nghiệp của Thoại Ngọc Hầu, mà còn là tinh hoa trí tuệ của các bậc tiền nhân. Và trách nhiệm của hậu thế ngày nay là phải biết phát huy hết thế mạnh của con kênh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để không phụ lòng tổ tiên.

N.D

  • Từ khóa
109949

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu