Thứ 3, 28/10/2025 03:47:24 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 09:02, 20/06/2017 GMT+7

Tấm lòng trung nghĩa

Thứ 3, 20/06/2017 | 09:02:00 939 lượt xem

BP - Trong chính sử triều Nguyễn là “Đại Nam chính biên liệt truyện”, thì không ghi Nguyễn Đăng Hành sinh năm nào và ở đâu. Tuy nhiên, theo gia phả và một số tài liệu khác ông sinh năm 1823, quê ở xã Phù Khánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, nay là thôn Phù Khánh, xã Hương Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông thi đỗ Hương cống khoa Quý Mão (1843). Sau đó, ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, ân khoa Mậu Thân, niên hiệu Tự Đức 1 năm 1848. Khi ấy ông mới 26 tuổi.

Theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện”, ông là cháu nội của Nguyễn Đăng Tuân (1772-1844, là thầy dạy vua Thiệu Trị) và là con của Nguyễn Đăng Giai, người từng làm Tổng đốc Hà Ninh. Ông vốn là người ôn hòa văn nhã, thích đọc sách. Sau khi thi đỗ tiến sĩ, ông được bổ làm Biên tu ở Viện Tập hiền, về sau được thăng lên chức Thị độc, lãnh chức Án sát sứ tỉnh Quảng Ngãi.

Minh họa:S.H

Năm Tân Dậu - 1861, nhà vua thăng ông làm Hồng lô tự khanh, lãnh chức Bố chính sứ tỉnh Khánh Hòa. Đến năm sau, ông nhận lệnh đi theo quân thứ ở Nam Đạo. Từ đầu năm 1862, đất nước cực kỳ rối ren, tháng giêng, quân Pháp đánh tỉnh thành Bà Rịa; tháng 3, chúng chiếm tỉnh thành Vĩnh Long. Đến tháng 5, Bôna sai Trung tá Ximông (Simon) đem chiến thuyền ra cửa biển Thuận An uy hiếp triều đình Huế đòi phải vào Sài Gòn ký hiệp ước giảng hòa. Triều đình Huế nhu nhược, tháng 6-1862 sai Phan Thanh Giản, Lâm Duy hiệp vào Sài Gòn ký Hòa ước “Hòa bình và hữu nghị” với Pháp, Tây Ban Nha và phải bồi thường chiến phí cho Pháp. Trong khi đó, ở miền Bắc, triều đình Huế bãi bỏ nha Đê chính trông coi việc đê điều. Kết quả là ngay năm đó, nhiều đoạn đê ở Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Yên vỡ.

Do dân đói khổ và bất mãn với triều đình Huế, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ. Nạn giặc Tàu Ô, giặc biển, thổ phỉ từ Trung Hoa tràn sang cướp phá các tỉnh ven biển và châu thổ sông Hồng. Đến tháng 9 thì hầu hết các tỉnh miền Bắc đều có loạn, triều đình phải cử Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Tuyển bình định miền Tây Bắc, Trương Quốc Dụng bình định miền Hải Yên (Hải Dương - Quảng Yên), Nguyễn Đăng Hành bình định Bắc Ninh (gồm cả Bắc Giang ngày nay). Vừa nhận lệnh Nguyễn Đăng Hành lập tức lên đường cùng quan quân ở Bắc Ninh tiễn trừ giặc cướp. Cả một vùng phía Đông giáp Quảng Yên và phía Nam giáp Hải Dương, Hưng Yên sạch bóng giặc. Khi ông kéo quân tiến lên tiễu trừ giặc cướp ở phía Bắc tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang thì ông bị tử trận trong một trận ác chiến.

Trong sách “Đại Nam chính biên liệt truyện”, có đoạn chép như sau: Vào năm Nhâm Tuất (1862)... tháng 3 âm lịch, có tên chánh tổng là Nguyễn Thạnh ở Bắc Ninh tự xưng nguyên soái. Nguyễn Thạnh đã tôn tên giặc trốn từ nhà Thanh sang tên là Huân làm minh chúa. Chúng lại thông đồng với đảng giặc biển ở vùng Quảng Yên (chỉ quân nổi dậy của Tạ Văn Phụng), tụ hội đến vài ngàn người, xâm phạm các phủ, huyện Lạng Giang, Yên Dũng, rồi tới vây thành tỉnh.

Cũng theo sách trên, trong thời gian ngắn được giao nhiệm vụ bình định vùng Bắc Ninh, ông đã trực tiếp tham gia đánh 13 trận và tất cả đều chiến thắng. Một hôm ở địa phương Đông Hồ thuộc phủ Thuận Thành (Bắc Ninh), gặp giặc tiến đánh, vì không có quân viện trợ nên ông bị giặc biển giết chết. Hay tin ông tử trận, triều đình và nhà vua vô cùng thương tiếc. Về sau, vua Tự Đức cho truy tặng ông hàm Bố chính sứ, lại hậu cấp cho người nhà. Sau đó, đưa bài vị ông vào thờ trong đền Trung Nghĩa ở Huế.

Lời bàn:

Theo các tư liệu lịch sử còn lưu truyền đến ngày nay, Nguyễn Đăng Hành xuất thân trong một gia đình thuộc hàng danh gia vọng tộc. Dòng họ Nguyễn Đăng ở làng Phù Chánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ Bắc Ninh vào định cư tại Quảng Bình theo chúa Nguyễn lập xứ ở đàng Trong. Ở Quảng Bình thời bấy giờ có nhiều dòng họ nối nhiều đời làm quan, nhưng dòng họ Nguyễn Đăng được sách sử Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép đầy đủ cả 5 đời liên tiếp có người đỗ đạt cao và làm quan lớn trong triều. Đó là ông cố của Nguyễn Đăng Hành là tiến sĩ Nguyễn Đăng Hoành, ông nội là Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Đăng Tuân (thầy dạy vua Thiệu Trị), cha là Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh) Nguyễn Đăng Giai và cháu ông là Phó bảng Nguyễn Đăng Cư.

Đạo làm quan của dòng họ Nguyễn Đăng nói chung và Nguyễn Đăng Hành nói riêng là tấm gương sáng để con cháu muôn đời sau soi chung và muôn dân kính nể. Một đời làm quan đại triều, Nguyễn Đăng Hành đã hết lòng phụng sự vì dân, nước và được triều đình nể trọng, muôn dân tôn kính. Ông quả là người sống xứng đáng làm đẹp cho dòng tộc, cho quê hương đất nước vạn đời sau tôn vinh. Thế mới hay rằng, sống ở trên đời không phải cứ “có đức thì mặc sức ăn”, mà muốn có đức thì đời trước cũng như đời sau phải biết tu thân tích đức. Có như vậy thì cái đức mới thịnh và bền lâu. Tiếc rằng, hậu thế thời nay không phải ai ai cũng hiểu được điều này để rồi nối gót tiền nhân làm rạng danh dòng tộc, làm gương cho con cháu noi theo, đồng thời để vun đắp sự sinh tồn và phát triển nên nhiều trang tuấn kiệt cho đời sau, thật đáng buồn thay.

N.D

  • Từ khóa
109926

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu
Năm 2023 Bình Phước đứng thứ bao nhiêu xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, thành cả nước?