Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến nổi tiếng thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau, ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học Trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn). Đến năm 1871, ông đỗ Hội nguyên và Đình nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam nguyên Yên Đổ.
Minh họa:S.H
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ năm 1884 và mất ngày 5-2-1909 tại đây.
Nguyễn Khuyến có phẩm chất trong sạch, nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.
Lúc này, Nam kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, Pháp tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã. Sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn.
Là người nuôi chí học hành để giúp dân, giúp nước và đã đạt đến vinh dự cao nhất trong nghiệp thi cử khi ông đỗ đầu cả 3 kỳ thi (Hương, Hội, Đình). Tuy nhiên, đỗ đạt rồi ra làm quan ông mới thấy chán ngán thế sự khi thực dân Pháp thì đang lấn chiếm dần dần đất nước, còn triều đình Huế hèn nhát cam chịu. Bởi thế làm quan đúng 10 năm, ông cáo quan về quê dạy học, ngâm thơ. Sống vui vầy giữa xóm làng, ông nhiều lần viết đại tự, cho câu đối bà con lối xóm. Điều đó là chuyện bình thường đối với một người khoa danh như ông. Tuy nhiên, điều đặc biệt là mỗi lần cho chữ, cho câu đối của ông là một giai thoại kỳ thú. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của ông.
Trong cuốn sách “Nguyễn Khuyến và giai thoại” Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Nam Ninh ấn hành năm 1987, do Bùi Văn Cường sưu tầm và biên soạn kể giai thoại rằng: Ngày ấy, có một làng nọ bị hỏa hoạn cháy mất cả đình làng. Khi dựng lại đình, viên kỳ mục làng đến xin cụ Tam Nguyên mấy chữ về treo để trấn thần hỏa, vì thời ấy người ta tin rằng cụ là một vị thần sống và do vậy chữ cụ có thể cảm động được cả thần linh. Nghe những người đến xin chữ nói rõ sự tình như vậy, cụ liền lấy cây bút đại tự viết lên tấm lụa điều một chữ “Nhất” rất lớn có hai đầu phình ra, giữa thót lại. Cụ dặn đem về treo ngược lên giữa cửa đình. Chẳng ai hiểu ý nghĩa ra sao nhưng người ta không dám hỏi mà cứ y lời đem về treo lên.
Lâu lâu sau, không thấy xảy ra hỏa hoạn nữa, người ta tin là do sự màu nhiệm của đạo bùa cụ Tam Nguyên nên làng bèn biện lễ và cử quan viên đến tạ ơn cụ. Hôm ấy có người đánh bạo hỏi cụ ý nghĩa của chữ “Nhất” trên đạo bùa. Nghe vậy cụ hỏi lại: Các ông thấy chữ “Nhất” ấy có giống cái chày không? Đám người kia bảo rất giống. Lúc ấy cụ mới cười rồi thủng thỉnh bảo rằng: Cái chày mà treo đứng là chày đứng. Mà chày đứng thì là đừng cháy. Chỉ có thế thôi!
Lời bàn:
Tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến, chúng ta càng thấy rõ mảng thơ, văn trào phúng đã góp phần bồi đắp nên tên tuổi, vị thế của ông trên thi đàn dân tộc. Thông qua những tác phẩm mang đậm nét trào phúng của mình, nhà thơ xứ Yên Đổ đã đạt được những thành tựu đầu tiên nhưng có giá trị vững bền trong lĩnh vực trào phúng của văn học Việt Nam. Và điều đặc biệt là tiếng cười trong thơ, văn của Nguyễn Khuyến hết sức đặc sắc, nó nhẹ nhàng, không vang lên thành tiếng nhưng sâu cay. Với những điều ông viết ra, người đọc càng nghĩ càng thấm thía cái dụng ý sâu sắc, thâm thúy trong từng nét chữ, lời thơ.
Là bậc đại nho ở ẩn, sống nhàn nên tiếng cười trong thơ, văn của Nguyễn Khuyến thật ý nghĩa, kín đáo, thâm nho. Cũng nhờ sắc màu trào phúng riêng biệt ấy mà những tác phẩm và tên tuổi của Nguyễn Khuyến vẫn còn ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc bao thế hệ trong suốt hơn 1 thế kỷ qua và cho đến mai sau. Chắc chắn rằng, dù thời gian có trôi đi, lớp bụi của nó vẫn không thể làm lu mờ dấu ấn mà Nguyễn Khuyến đã khắc vào tâm trí bạn đọc - dấu ấn về một nhà thơ trào phúng “khóc dẫu cười không thể giấu”.
N.D