BP - Theo sách “Lam Sơn thực lục”, vào tháng 11-1407, cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược của vương triều Hồ thất bại. Ngay sau đó rất nhiều cuộc khởi nghĩa đã bùng lên, điển hình là cuộc kháng chiến của nhà Hậu Trần do 2 vua Giản Định đế và Trùng Quang đế lãnh đạo nhưng tất cả đều bị đàn áp tàn khốc. Đánh giá ngắn gọn về tình cảnh dân chúng nước ta trong thời nội thuộc, sách “Việt giám thông khảo tổng luận” viết rằng: Nhà Nhuận Hồ đã bị bắt mà nhà Hậu Trần cũng mất theo, đất nước chia xé từng mảnh, nát hơn cuối buổi nhà Chu. Quan lại chính lệnh bạo ngược, hình phạt tàn khốc, thảm hơn nhà Tần khi mất. Từ đấy người Minh thả sức bạo ngược, nhân dân lầm than, chưa có lúc nào như lúc này.
Trong bối cảnh đầy khó khăn như vậy, Lê Lợi đã đứng lên dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn vào mùa xuân năm Mậu Tuất (1418). Từ một cuộc khởi nghĩa nhỏ, lực lượng ít, khu vực hoạt động hẹp, trải bao gian khó, dần dần Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân đã từng bước phát triển lực lượng, mở rộng quy mô hoạt động, giành nhiều thắng lợi quan trọng để xoay chuyển dần cục diện đi đến thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên, khó khăn nhất là giai đoạn đầu khi nghĩa quân hoạt động ở vùng rừng núi Thanh Hóa (1418-1423) với thắng ít, thua nhiều và đã có lúc lâm vào tình cảnh khốn quẫn: Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Lúc Khôi Huyện, quân không một đội (Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi).

Tuy gặp vô vàn khó khăn, nhưng với ý chí vững chãi không gì xoay chuyển nổi, lại được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ nghĩa quân đã kiên trì kháng chiến để giành thắng lợi. Và giai thoại dưới đây là minh chứng tiêu biểu cho sự ủng hộ của nhân dân đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đối với người anh hùng Lê Lợi. Ở trong tình thế vô cùng nguy hiểm đến tính mạng và thậm chí có ảnh hưởng đến thời cuộc của đất nước trong một giai đoạn lịch sử, nên cả người cứu và người được cứu đều không tị hiềm bởi những quan niệm phong kiến nặng nề.
Chuyện rằng, khi còn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, có lần bị thua trận, binh tướng tan tác hết, chỉ còn một mình Lê Lợi bị giặc Minh đuổi theo ráo riết. Chạy đến bờ đê ven một ngôi làng bên bờ sông Mã, ông thấy có một quán nước liền vào hỏi thăm đường và nói rõ tình cảnh của mình. Cụ bà bán nước biết tình thế rất nguy mới nói rõ mọi ngả đường quanh đó đều bị quân giặc án ngữ cả, không còn lối thoát. Bà nói, nếu không tị hiềm gì thì chỉ còn cách để ông ngồi núp sau lưng mình rồi trùm váy lên che kín. Lê Lợi đồng ý nhờ vậy mà giặc Minh đi qua không nghi ngờ gì, bà cụ còn chỉ hướng sai cho chúng đuổi bắt trong vô vọng về hướng núi Vàng (nay thuộc xã Hoằng Khánh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
Đợi giặc đi khuất, Lê Lợi lạy tạ cảm ơn bà lão rồi vội cáo biệt đi ngay, thoát được sự truy bắt của giặc. Sau này, khi sự nghiệp đã thành, nhớ ơn bà cụ bán nước, vua Lê Lợi đích thân trở lại chốn cũ đón bà cụ về Thăng Long phụng dưỡng, tôn làm Quốc mẫu. Ở kinh đô được ít lâu, bà cụ xin về sống tại quê gốc ở làng Quan Nội (nay thuộc xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hóa) và mất ở đó, thọ hơn 80 tuổi. Khi bà mất, vua cho làm lễ tang rất trọng thể. Tương truyền hôm đưa đám, trời mưa to như trút nước, người ta đành tạm quàn linh cữu ở giữa cánh đồng, đến sáng hôm sau dân làng ra đồng để tiếp tục đưa đám thì thấy linh cữu đã được mối đùn lên thành một gò đất. Chỗ này, về sau vua Lê Thái Tổ cho lập đền thờ bà cụ, hằng năm cúng tế theo nghi thức, làm lễ lớn vào giỗ bà ngày 12 tháng chạp. Ngôi đền thờ bà được gọi là đền Quốc mẫu (nay ở xã Hoằng Xuân, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Lê Lợi còn sắc phong cho bà là Hộ quốc đại vương, mỹ tự là “Hổ y hoằng hữu”.
Theo dã sử địa phương và các tài liệu như bản “Thánh tổ phổ tích”, gia phả họ Hà ở Hoằng Hóa... bà cụ tên thật là Hà Thị Diệu Cai. Bến sông xưa, nơi có quán nước mà bà cụ cứu Lê Lợi thoát hiểm sau gọi “bến Tử” nhưng lại là nơi người anh hùng dân tộc được cứu sống. Bà cụ Hà Thị Diệu Cai còn có công chiêu dân, lập ra làng Sở (xã Hoằng Xuân, huyện Hoằng Hóa) nên dân làng đã dựng ngôi đình thờ và tôn bà làm Bản cảnh thành hoàng.
Lời bàn:
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần thánh do Lê Lợi lãnh đạo đã trải qua gần 600 năm. Nhưng trong tâm thức dân gian, hình tượng Lê Lợi luôn là người anh hùng kiệt xuất mà nhân dân gửi gắm niềm tin và hy vọng, ý chí của mình để giành lại non sông, đất nước khỏi ách đô hộ của quân xâm lược. Trong quan niệm, suy nghĩ của nhân dân thì Lê Lợi hội tụ đầy đủ sự đức độ, lòng nhân nghĩa, sự khoan dung, vượt lên là trí dũng hơn người và lòng yêu nước, thương dân nồng nàn, ý chí quyết tâm đánh giặc đến cùng đã trở thành lẽ sống của đời ông. Và đó cũng là tâm nguyện, ý chí, khát vọng của người dân đương thời.
Có thể nói, những truyền thuyết, cổ tích, giai thoại, truyện về Lê Lợi rất đa dạng, phong phú và chân thật, gần gũi đời thường. Các câu chuyện phần lớn mộc mạc, ngắn gọn nhưng cẩn trọng, tỉ mỉ trong quan sát xây dựng phát triển tình tiết không tạo sự khiên cưỡng, áp đặt. Điều đó càng tôn lên hình tượng cao thượng cũng như sự bình thường, giản dị của người anh hùng Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Giai thoại trên đây là một minh chứng, vì nếu không vượt qua cái bình thường đến tầm thường thì không bao giờ trở thành anh hùng. Lê Lợi đã tạo cho cuộc đời cũng như sự nghiệp của ông có sức sống bền lâu suốt nhiều thế hệ và mãi mãi về sau là nhờ vậy.
N.D
                            
                    
                    
                        Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc                    
                
                    
                    
                        Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý                    
                
                    
                    
                        Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước                    
                
                    
                    
                        Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính                    
                
                    
                    
                        Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026