BP - Theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện”, Nguyễn Hữu Hào quê tổ của ông ở hương Gia Miêu, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa, nhưng bản thân ông được sinh trưởng ở Phú Xuân. Ông là hậu duệ đời thứ 9 của danh thần Nguyễn Trãi và là cháu nội của Tham tướng Chưởng cơ Nguyễn Triều Văn, con trưởng Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật và là anh Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Hữu Hào là người văn võ toàn tài, từ nhỏ đã theo cha chinh chiến và được Ngãi vương Nguyễn Phúc Trăn tin dùng với chức Thống binh. Trong khi cầm quân cũng như lúc làm quan, Nguyễn Hữu Hào lo việc quân sự, huấn luyện quân đội, chăm sóc đời sống dân chúng nên ai nấy đều kính mến. Trong sách “Đại Nam thực lục tiền biên” khi chép về ông đã khen rằng ông là người biết “vỗ yên trăm họ, yêu nuôi sĩ tốt, được quân dân mến phục”.
Năm 1688, Dương Ngạn Địch (quan nhà Minh chạy nạn sang nhà Mãn Thanh, được chúa Nguyễn cho khai hoang ở vùng Mỹ Tho) nhưng đã bị Hoàng Tiến ám sát. Hoàng Tiến là phó tướng của Dương Ngạn Địch. Sau khi ám hại chủ tướng, Hoàng Tiến liền tự xưng là Phấn dũng hổ oai tướng quân, sau đó dời đồn sang Nan Khê (sông Vàm Nao), cố thủ nơi vùng đất hiểm trở và cho đắp lũy, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc tứ tung. Khi ấy, vua chính nước Chân Lạp là Nặc Thu oán giận, tưởng là chúa Nguyễn ngầm xui để lấy cớ xâm chiếm nước, bèn mưu với bề tôi là Óc Nha Cống Sa bỏ việc triều cống và đắp ba luỹ, ngăn cửa sông, làm kế cố thủ... Vua thứ nhì Chân Lạp là Nặc Nộn thấy vậy liền cấp báo đến dinh Trấn Biên. Chúa Ngãi Nguyễn Phước Trăn hay tin nổi giận, bèn cử tướng Mai Vạn Long rồi giả hiệp quân cùng Hoàng Tiến đi dẹp Nặc Thu, nhưng kỳ thực cũng để hạ Hoàng Tiến.
Tháng giêng năm 1689, Mai Vạn Long kéo quân đến cửa biển Mỹ Tho, đóng ở Rạch Gầm, dùng mẹo đánh lừa Hoàng Tiến đến hội Phục và giết chết viên phó tướng này, rồi tiến quân hỏi tội Nặc Thu. Nặc Thu cử Chiêm Dao Luật, một người con gái trẻ đẹp làm sứ giả, đem vàng bạc biếu Vạn Long, xin được chậm cống nạp. Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn khuyên không nên mắc lừa vua Chân Lạp, nhưng Vạn Long không nghe. Mai Vạn Long vì háo tiền, sắc không nghe lời khuyên của thuộc tướng. Tin đến tai Ngãi Vương, Vạn Long bị tước chức và cho Nguyễn Hữu Hào vào thay.
Năm 1690, chúa Nguyễn Phúc Thái lại sai Nguyễn Hữu Hào hối thúc Chân Lạp cống nạp. Lần này, Dao Luật cũng lại đến xin dâng cống nạp lớn hơn và khóc lóc nài nỉ thảm thiết. Các tướng tức giận đòi bắt giam sứ giả rồi đem quân tiến đánh Nặc Thu, nhưng Nguyễn Hữu Hào không cho. Vài hôm sau, Dao Luật cùng Ốc nha A Lặc Thi đem 20 thớt voi nhỏ, 100 lạng vàng, 500 lạng bạc đến cống rồi nài nỉ xin chậm nộp số lễ vật hãy còn thiếu. Các tướng Nguyễn lại xin đánh, Hữu Hào gạt đi và nói: Yên vỗ người xa, quý lễ không quý vật. Nói xong, rồi ông ra lệnh rút quân về đóng ở Bà Rịa. Tin mật lập tức được chuyển về cho chúa Nguyễn. Tháng 8-1690, khi Nguyễn Hữu Hào vừa về tới Thuận Hóa liền bị bãi hết chức tước.
Tuy cùng tội bị tước chức như Vạn Long nhưng Hữu Hào nhận được lời khen của hậu thế là người nhân hậu, biết kháng lệnh sẽ bị tội nhưng vẫn gánh chịu vì không muốn thấy cảnh máu chảy thành sông. Tuy nhiệm vụ bình Chân Lạp mở mang bờ cõi về phương Nam của Nguyễn Hữu Hào không thành nhưng người em của ông là Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh thì hoàn thành rất xuất sắc vào năm 1699.
Trong cuốn sách Thanh Hóa nghìn xưa lưu dấu có đoạn kể lại như sau: Sau khi bị bãi hết chức quan, một hôm Nguyễn Hữu Hào đi làm phu đắp đê, gặp được Vạn Long đang ngồi ung dung câu cá bên sông. Vạn Long lên tiếng trước: Tôi nghe ông bảo Dao Luật rằng “Ta không giống như Vạn Long đâu!” Ai ngờ bây giờ ông cũng chẳng khác gì Vạn Long! Hữu Hào cười nói: Phải, tôi và ông nay đều là thứ nhân cả, nhưng ông vì tham vàng lụa, còn tôi lại tham nhân nghĩa, tưởng giống nhau mà rất khác nhau... Và chỉ một năm sau ngày bị bãi chức, ông lại được triều đình gọi về phục chức.
Lời bàn:
Từ nội dung của giai thoại trên đây cho thấy Nguyễn Hữu Hào là vị tướng lấy nhân nghĩa mà cảm hóa kẻ phản loạn, làm cho kẻ cứng đầu khiếp uy mà sợ phục. Nhưng tiếc rằng, quan lại dưới quyền thời ấy lại không đồng quan điểm với ông, thế nên mới có lời tâu với chúa Nguyễn rằng: “Hữu Hào lừng chừng, làm lỡ việc quân”. Chúa lại không rõ hết nội tình, nghe theo lời quần thần nên đã truất chức Thống suất của ông và phải về làm dân thường. Dẫu thân đang làm tướng, phải về làm dân, nhưng không phải vì về làm dân thường mà Nguyễn Hữu Hào buồn phiền.
Thế mới hay rằng, dưới thời phong kiến thì vua hay chúa cũng đều thích xu nịnh, gièm pha và đời nào cũng có kẻ ganh tị người tài hơn mình. Vẫn biết lẽ đời là vậy, song mọi sự vật và hiện tượng đều phải tuân theo quy luật của tự nhiên, của tạo hóa, đó là: Người có tài cao đức dày thì vẫn cứ được người đương thời cũng như hậu thế kính nể và tôn vinh, người lại thích những kẻ xu nịnh và ghen ghét người tài thì dẫu có được lòng vua lúc đương thời, nhưng hậu thế mãi mãi xem thường. Vậy nên thời nay xin đừng ai quên điều này.
N.D