Tống Thiệu Công lấy vợ người xã Phù Oanh, cùng huyện tên là Đào Thị Cuông. Vợ chồng sống rất nhân từ, tu nhân tích đức, hay làm việc thiện và việc làm của họ thấu trời xanh, nhà trời đã sai thiên sứ xuống đầu thai. Đến tuổi lục tuần hai người mới có con. Bà Cuông mang thai hơn 11 tháng đến giờ Dần ngày 15 tháng 4 năm Bính Ngọ (556) mới sinh hạ một cậu bé khôi ngô tuấn tú và đặc biệt suốt 3 ngày 3 đêm trong nhà luôn tỏa ánh hào quang nên hai cụ đã đặt tên con là Tống Trân. Tống Trân lớn nhanh như thổi, lên 3 tuổi đã tinh thông hết âm luật. Cha mất, ngài cùng mẹ đi cầu thực, cầu tài khắp nơi, rồi ngài lấy được người vợ tên là Cúc Hoa nhân hậu, hiền thảo. Vốn có khí chất thông minh, học một biết mười nên khi 5 tuổi Tống Trân đã trên thông thiên văn, dưới tường địa lý.
.jpg)
Năm Tống Trân lên 7 tuổi, vua Lý Nam Đế (544-548) mở khoa thi chọn nhân tài vào ngày 29-9. Tống Trân vào kinh ứng thí, cả 3 kỳ đều đỗ thủ khoa. Đến ngày mồng 1 tháng 2 năm Quý Sửu (563), Tống Trân đỗ đệ nhất Giáp Cập đệ nhất danh trạng nguyên và được vua khen là “Quốc sĩ vô song, tướng tài quả nhị”, nghĩa là “Kẻ sĩ cả nước chỉ có một Tống Trân, tướng tài không có người thứ hai”. Mồng 10 tháng 4, vua ban cờ, gấm lụa, vàng cho trạng nguyên về vinh quy bái tổ. Trở về làng bái yết tổ tông, thăm hai bên nội ngoại, khao vọng làng trong 1 tháng, rồi ông cưới bà Cúc Hoa làm vợ.
Sau 3 tháng, vua cử ông đi Bắc quốc. Vua xứ Bắc thấy trạng ít tuổi, tỏ ý khinh thường nên muốn thử tài của trạng nước Nam. Tống Trân đều đối đáp đâu ra đấy nên được vua Bắc khen là nhân tài thứ nhất trong 18 nước chư hầu và phong làm “Lưỡng quốc trạng nguyên”. Vua Tàu muốn gả con gái cho trạng nhưng Tống Trân từ chối nên vua đã nhốt ông cùng quân sĩ vào Linh Long 100 ngày không cho thức ăn, nước uống, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Tống Trân đã lệnh cho quân sĩ ăn tượng phật được làm bằng chè lam, uống nước cúng phật (nước lã). Sau 100 ngày, thấy trạng và quân sĩ vẫn béo tốt, khỏe mạnh, vua Tàu càng phục tài trạng rồi phong làm “Phụ quốc thượng tể đẩu Nam Tống đại vương”.
Qua 10 năm đi sứ, ở nhà Cúc Hoa vẫn chờ đợi chồng và một lòng hiếu thảo với mẹ chồng. Nhưng cha nàng đã bắt nàng lấy con nhà giàu. Tống Trân giả dạng người hành khất để dò la tình ý, biết Cúc Hoa vẫn thủy chung với mình, khen Cúc Hoa đủ tam tòng, tứ đức. Tống Trân đón vợ về gia đình cùng đoàn tụ. Vua biết chuyện phong cho Cúc Hoa làm “Quận phu nhân”. Khi Lý Nam Đế băng hà, Triệu Quang Phục lên ngôi lấy hiệu là Triệu Việt Vương, có vời Tống Trân ra làm “Phụ chính đại thần”.
Đến năm 60 tuổi, Tống Trân cáo quan về dạy học với mong muốn con nhà nghèo đều được đi học. Cúc Hoa không có con, lại mắc chứng bệnh đau bụng, 3 hôm sau vào ngày 3-3 thì qua đời. Tống Trân mất ngày 5 tháng 5 năm Tân Hợi (621). Sau đó, Tống Trân được truy phong làm “Thượng đẳng phúc thần”.
Hiện nay, tại văn miếu Xích Đằng (Hưng Yên) còn tấm bia ghi tên Tống Trân, bia này được lập vào cuối triều Nguyễn. Còn ở làng An Cầu có đền thờ Tống Trân. Người đời sau đã viết truyện Tống Trân - Cúc Hoa, một tác phẩm thơ Nôm dân gian nổi tiếng, ca ngợi tài đức, tình yêu và lòng chung thủy của Tống Trân - Cúc Hoa. Có người còn làm câu đối về Tống Trân, dịch nghĩa như sau: Tám tuổi đỗ Trạng Nam, đã nổi tài sanh vàng đất Việt; Mười năm sang xứ Bắc, lại đem vận sự dõi đời sau.
Lời bàn:
Chuyện về Trạng nguyên Tống Trân là vậy, song trong lịch sử khoa cử thời phong kiến ở nước ta không có dòng nào ghi chép về Trạng nguyên Tống Trân. Điều đó cho thấy, đây là nhân vật hư cấu, là sự sáng tạo của nhân dân và chính bản thân những tác giả dân gian lại luôn đặt niềm tin cũng như mơ ước của mình vào sự sáng tạo đó. Vì thế, người dân địa phương từ bao đời nay đều tin vào nhân vật Tống Trân là có thật. Sau đó, Tống Trân được trao cho một lý lịch hết sức rõ ràng, cụ thể: Quê ở xã An Đô, huyện Phù Dung, cha là Tống Thiệu Công, mẹ là Đào Thị Cuông... Tống Trân sống vào thời tiền Lý, làm quan với Lý Nam Đế, sau đó theo Triệu Quang Phục.
Đây chính là điều vô lý, vì khoa thi đầu tiên ở nước ta được tổ chức vào năm Ất Mão (1075) dưới triều vua Lý Nhân Tông. Do đó, nhân vật Tống Trân trong giai thoại nêu trên là ước mơ về sự thành đạt của những người dân lao động bình thường. Và dẫu là giai thoại hay dã sử, truyền thuyết hoặc tác phẩm văn học dân gian, thì đó cũng là tiếng nói lên án những thế lực tàn bạo đã ngăn cản, chà đạp lên tình yêu; đồng thời ngợi ca tấm lòng son sắt kiên trinh, ý chí phấn đấu vì hạnh phúc, vì tình yêu của những con người biết chống lại các thế lực đó cùng nhiều lễ tục khắc nghiệt. Nhờ đó mà chuyện Tống Trân đã xây dựng thành công mẫu người Việt Nam truyền thống, đặc biệt là người phụ nữ với tâm hồn phong phú và đặc sắc.
N.D

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026