BP - Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Chu Mạnh Trinh sinh năm 1862, có tên chữ là Cán Thần, hiệu Trúc Vân, người làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Sinh thời, ông là người nổi tiếng với tài văn thơ ứng biến và khả năng kiến trúc đại tài. Chu Mạnh Trinh sinh trong gia đình có truyền thống Nho học, thân phụ ông là Chu Duy Tĩnh làm quan đến chức Ngự sử. Chu Mạnh Trinh học rất thông minh. Năm 19 tuổi, đỗ tú tài. Năm 25 tuổi, ông đỗ giải nguyên. Năm 31 tuổi, thi đỗ tam giáp tiến sĩ nên người đương thời gọi ông là ông nghè Phú Thị.
Sau khi đỗ tam giáp tiến sĩ, Chu Mạnh Trinh được bổ làm tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Tương truyền, ông làm quan công minh chính trực. Có lần ông đã phạt đánh một tu sĩ người Pháp có hành động cậy thế lộng hành. Làm tri phủ ít lâu, thân phụ ông mất, Chu Mạnh Trinh xin cáo quan về cư tang. Mãn tang, ông được giao chức Án sát tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh và Thái Nguyên. Tiếc rằng sử cũ không chép ông mắc bệnh gì, chỉ hay ông mất vào cuối năm 1905, khi mới 43 tuổi.
Minh họa: S.H
Mang phong cách nhà Nho tài tử, trong hoàn cảnh xã hội phong kiến suy tàn, thực dân Pháp xâm lược nước ta, ông có khuynh hướng thoát ly, hưởng lạc. Nhưng những sáng tác của ông lại thể hiện tình cảm yêu nước, đề cao văn hóa dân tộc. Ông thích ngao du thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, di tích lịch sử, ngâm vịnh thi phú. Những bài ca trù, nhất là bài “Hương Sơn phong cảnh ca” được viết rất điêu luyện, giàu tình cảm thiên nhiên, tình yêu đất nước. Tác phẩm của Chu Mạnh Trinh giàu tính nhân văn, biểu lộ khuynh hướng lãng mạn, tình cảm chủ nghĩa. Thơ chữ Hán có tập “Trúc Văn thi tập”. Thơ Nôm có tập “Thanh Tâm tài nhân thi tập”. Và không chỉ là nhà thơ lớn, Chu Mạnh Trinh còn là nhà kiến trúc có tài. Ông là người vẽ kiểu trùng tu chùa Thiên Trù (chùa ngoài động Hương Tích) và xây dựng đền Đa Hòa, đền Hóa Dạ Trạch, hai ngôi đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung ở huyện Khoái Châu.
Chu Mạnh Trinh là nhà Nho nổi tiếng ở sự phóng khoáng hào hoa, thành thạo cả cầm, kỳ, thi, họa và còn giỏi cả về kiến trúc. Năm 1905, Tổng đốc Hưng Yên là Lê Hoan tổ chức cuộc thi vịnh Kiều, chánh chủ khảo là nhà thơ Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh được giải nhất về thơ Nôm. Ông say mê Truyện Kiều, cảm thông đồng điệu với nhân vật Thúy Kiều đến mức sáng tác cả một tập thơ Nôm về Kiều (Thanh Tâm tài nhân thi tập). Bài tựa Truyện Kiều viết bằng Hán văn là một áng văn phẩm bình dân sâu sắc về Truyện Kiều, thể hiện phong cách cũng như tài năng văn chương của Chu Mạnh Trinh. Và cũng liên quan đến Truyện Kiều mà giữa Chu Mạnh Trinh và Nguyễn Khuyến có một giai thoại còn lưu truyền đến ngày nay.
Chuyện kể rằng năm 1905, triều đình mở cuộc thi vịnh Kiều ở Hưng Yên và mời Nguyễn Khuyến làm giám khảo. Trong cuộc thi này, Chu Mạnh Trinh gửi bài tới dự và đoạt giải nhất. Khi Nguyễn Khuyến chấm thơ của Chu Mạnh Trinh cho là khá, tuy nhiên khi đọc đến hai câu trong bài vịnh Sở Khanh:
Làng nho người cũng coi ra vẻ,
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.-
Nguyễn Khuyến tỏ vẻ không bằng lòng, phê ngay vào bên cạnh rằng:
Rằng hay thì thực là hay,
Đem “nho” đối “xỏ” lão này không ưa.
Chu Mạnh Trinh biết được có ý giận Nguyễn Khuyến. Khi làm án sát ở Hưng Yên, nhân dịp tết Nguyên đán, Chu Mạnh Trinh gửi tặng Nguyễn Khuyến một chậu hoa trà - loài hoa có sắc nhưng không có hương, có hàm ý chê Nguyễn Khuyến khi đó mắt lòa không nhận ra được cái sắc của hoa. Hiểu được thâm ý người tặng, Nguyễn Khuyến làm một bài thơ gửi Chu Mạnh Trinh:
Tết đến người cho một chậu trà
Đương say còn biết cóc đâu hoa!
Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ,
Áo tía đai vàng, bác đó a?
Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá
Gió to luống sợ lúc rơi già!
Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà!
Tương truyền, khi người nhà trở về và đưa bài thơ của Nguyễn Khuyến gửi, Chu Mạnh Trinh đọc xong vừa thẹn vừa ân hận.
Lời bàn:
Chu Mạnh Trinh có cốt cách một nhà Nho tài tử. Ông làm quan trong hoàn cảnh xã hội phong kiến suy tàn, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Mặc dù ông có khuynh hướng thoát ly nhưng những sáng tác của ông lại thể hiện tình cảm yêu nước, đề cao văn hóa dân tộc. Các sáng tác cho ca trù của ông nghiêng về tinh thần nho nhã, thanh tao. Lúc bấy giờ thân phận và vị thế của những đào hát bị xã hội coi thường, nhưng ông nhìn nhận họ bằng tấm lòng của người trân trọng nghệ thuật. Vì thế, những sáng tác của ông về đào hát đều thể hiện thái độ trân trọng, yêu mến tài năng nghệ thuật. Bằng tâm huyết và tài năng của mình, Chu Mạnh Trinh đã góp phần làm giàu cho loại hình nghệ thuật ca trù, di sản văn hóa của Việt Nam và đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp.
Vì vậy, cùng với giá trị văn hóa bất tử, ông cũng trở nên bất tử. Và qua thơ văn mà người ta hiểu nỗi lòng ông, hiểu tình thế của ông trong bức tranh thời thế. Tác phẩm của Chu Mạnh Trinh không nhiều, nhưng bài giới thiệu Truyện Kiều mang nhiều kiến giải sâu sắc, tinh tế, cảm động về thân phận cô Kiều. Ông có cái nhìn tiến bộ, giàu nhân ái, cùng với Nguyễn Du, Chu Mạnh Trinh bênh vực và đề cao phẩm hạnh của nàng Kiều. Vấn đề còn lại với hậu thế là phải làm gì để những di sản của tổ tiên mãi mãi trường tồn và phát huy giá trị bất diệt của nó?
N.D