BP - Chuyện xưa kể rằng, chúa Trịnh hồi đó ngày nào cũng mở yến tiệc, ních đầy bụng toàn những món sơn hào, hải vị. Người ăn nhiều của ngon, vật lạ thì nhàm mồm đâm ra khó tính. Một hôm chúa thấy trong người khó ở, lưỡi se đắng, bụng ậm ạch. Nhân ngồi nói chuyện với Quỳnh, chúa phàn nàn: Ta ngẫm không còn thiếu thứ gì quý hiếm trên đời chưa thưởng thức. Quái lạ, thế mà vẫn chưa món nào làm ta cảm thấy ngon miệng. Điều đó là tại làm sao, trạng nói ta hay? Quỳnh nói luôn: Thế chúa đã xơi món mầm đá bao giờ chưa?
Minh họa: S.H
Chúa lấy làm lạ: Món mầm đá thế nào, chắc ngon lắm phải không? Quỳnh đáp: Tuyệt trần đời. Nhưng muốn ăn mầm đá phải kỳ công. Chúa liền nằng nặc: Sợ gì công phu! Miễn là được ăn ngon. Nhất là lúc này, người đang mệt mỏi, ta đang rất cần ăn biết ngon. Trạng hãy mau chóng cho làm món mầm đá kia đi!
Ít lâu sau, vào tờ mờ sáng, Quỳnh viết thiếp cho gia nhân mời chúa đến nhà thết tiệc mầm đá. Nhận được thiếp mời, chúa đến nhà trạng ngay từ lúc rạng sáng. Đến khi mặt trời đứng bóng, mà vẫn thấy Quỳnh bận rộn lụi hụi dưới bếp, thỉnh thoảng chạy ra, chạy vào, mồ hôi nhễ nhại, khăn tay vắt vai, tay áo xắn đến khuỷu... Chúa nghĩ thầm: “Đúng là món mầm đá kỳ công thật nên trạng mới phải ra tay đốc thúc nhà bếp tất tưởi như thế kia!
Quá giờ Ngọ, sang giờ Mùi, bụng chúa bắt đầu cồn cào. Quỳnh vừa ló mặt, chúa đã chép miệng, trách: Sao “mầm đá” lâu chín thế? Biết thế này ta chẳng nhận lời đến nhà trạng hôm nay. Nghe xong, Quỳnh lấy khăn tay thấm mồ hôi trán khải rằng: Thần muốn chúa ngon miệng nên mới dụng công ninh “mầm đá” thật công phu. Xin chúa gắng đợi chút nữa, sắp chín rồi... Một chốc chúa lại giục, Quỳnh lại khẩn khoản thưa: Gắng đợi thêm một chút mầm đá không kỹ lửa, không ninh nhừ khó tiêu...
Mặt trời xế bóng vẫn chưa thấy món mầm đá được dọn ra. Lúc đó, mùi cá khô lẫn mùi khói bếp bữa cơm chiều bên mấy nhà bay vào làm chúa “nhức lỗ mũi”, ứa nước dãi. Chúa đành gọi Quỳnh lên, chúa ngồi hóp bụng lại, thú thật: Ta đói lắm rồi, không đợi được nữa. Mầm đá để dành ăn sau cũng được. Bây giờ có thức gì dùng tạm, trạng cứ cho mang lên! Quỳnh dạ một tiếng, vẻ miễn cưỡng rồi hét vọng xuống bếp: Cứ chất thêm củi vào nồi “mầm đá”! Hãy bưng cơm lên dâng chúa dùng cho qua loa đã chúng bay!
Gia nhân dạ ran, rồi bê cái mâm lên. Bữa xoàng, có một phạng cơm với rau muống luộc và một chiếc hũ sành. Chúa thấy ngoài chiếc hũ dán mảnh giấy hồng điều đề hai chữ “đại phong”. Chúa ăn cơm rau chấm nước “đại phong” ngon lành, chỉ một loáng lại đưa bát cho trạng xới tiếp. Chúa nghĩ bụng, chắc món này cũng quý hiếm đặc biệt nên thấy trạng giữ gìn chiếc hũ cẩn thận. Có lần rau đã hết nước chấm, mãi mới thấy trạng cẩn thận đỡ miệng hũ, múc thêm mấy muôi nhỏ “đại phong” nữa...
Chúa ngắm nghía chiếc hũ lại nhìn trạng. Này khanh, “đại phong” là món gì mà ngon lạ như vậy? Quỳnh đáp, khải chúa, đây chỉ là món thường nhật của con nhà trong làng. Chúa không tin và hỏi lại: Hai chữ “đại phong” là nghĩa thế nào?
Quỳnh tủm tỉm cười: Nhà chúa nhìn được mặt chữ, tự giải lấy, khắc rõ. Chúa lẩm bẩm: Đại phong tức là gió lớn, phải không? Quỳnh gật đầu, hỏi tiếp: Vậy gió lớn thì làm sao? Chúa bối rối như học trò không thuộc bài, nhìn trạng. Quỳnh giảng giải: Gió lớn ắt đổ chùa! Trạng lại tiếp, hỏi dồn: Đổ chùa thì làm sao? Chúa càng ấp úng. Quỳnh nói: Đổ chùa thì sư, vãi bỏ chạy, xôi oản mất hết... Của ngọc thực rơi vãi hết thì ông bụt nào cũng phải lo... Tượng lo thì làm sao?
Trạng hỏi, đáp, dồn dập liên hồi. Chúa chỉ còn biết ngồi trơ ra như phỗng. Hồi lâu, Quỳnh mới chịu khẽ khàng cắt nghĩa: Đến trẻ con cũng biết đọc ngược “tượng lo” là “lọ tương”. Khải chúa, thứ tương đỗ này không cao sang đâu, chẳng qua chúa quên mất những miếng ngon ở làng xóm rồi. Nay thần bày cách ninh “mầm đá”, chẳng thể đun được nhừ, đợi đến bao giờ cũng không thể ăn được. Chúa cứ ngồi cho bụng thật đói, miệng thật thèm, bấy giờ chỉ cần lấy lưng cơm với món “đại phong” xoàng xĩnh này, chúa sẽ thấy ngon miệng. Chúa Trịnh bừng tỉnh trước một sự thật ngay bên mình... Chúa đứng dậy, cảm ơn trạng, ra về.
Lời bàn:
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười về các ông trạng thì có rất nhiều, ví như: Trạng lợn, trạng nghèo, trạng chuột, trạng lười... và trong đó có một ông trạng nổi tiếng mà đến mức đời này qua đời khác ai cũng biết. Đó là Trạng Quỳnh và nếu ai đó có dịp đọc truyện Trạng Quỳnh trọn bộ thì sẽ có cái nhìn và cảm nhận sâu sắc về một ông trạng cực kỳ nổi tiếng mà trải qua bao nhiêu đời người vẫn còn sống mãi trong tâm trí người dân đất Việt. Vì ông là một đại diện ưu tú của trí tuệ nhân dân, được nhân dân xây dựng, bồi đắp ngày thêm phong phú, hoàn chỉnh tài năng và tính cách, hòa trộn yếu tố hiện thực và những giả tưởng huyền thoại pha chất trần gian.
Nói tóm lại, truyện Trạng Quỳnh là một tập hợp truyện viết về lịch sử nước ta theo lối kể lại các giai thoại về những bậc anh tài, những vị trạng nguyên được thể hiện qua hình ảnh của Trạng Quỳnh thông minh bậc nhất. Đọc truyện Trạng Quỳnh không phải chỉ để giải trí, mà còn giúp chúng ta hiểu thêm về lịch sử của đất nước, hiểu được nhiều giá trị về vẻ đẹp trí tuệ của nhân dân ta từ bao đời nay.
N.D