BP - Trần Cao Vân là một trong những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa ở miền Trung do Việt Nam Quang Phục Hội chủ xướng. Ông sinh năm Bính Dần -1866, tại làng Tư Phú, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Làng Tư Phú là một trong mười một làng thuộc khu đất “Gò Nổi”, một vùng đất sản sinh ra nhiều bậc anh tài của xứ sở như Phạm Phú Thứ, Hoàng Diệu... Ông là con cụ Trần Trung Trực, thường gọi là cụ Quyền Trực, một người được sự mến chuộng của dân làng Tư Phú và cụ bà Đoàn Thị.
Trần Cao Vân tên thật là Trần Công Thọ, lúc lớn lên từng học và đi thi lấy tên là Trần Cao Đệ, lúc vào chùa lấy pháp danh là Như Ý, khi ra hoạt động cách mạng đổi tên là Trần Cao Vân, biệt hiệu là Hồng Việt và Chánh Minh, còn có biệt danh là Bạch Sĩ. Theo những người đồng thời kể lại: Trần Cao Vân có vóc dáng trung trung, mặt vuông, trán cao, đôi mắt sâu và sáng, năm chòm râu dài tha thướt trông thật uy dũng.
Thường nhật ông có tánh bình dị, không chuộng sự xa hoa. Từ khi 21 tuổi, ngày ông bắt đầu ly hương cho đến ngày từ giã cuộc đời, ông đã trải qua nhiều giai đoạn: Từ một nho sĩ, một đạo sĩ rồi đến một nhà cách mạng, ông sống một cuộc đời thanh đạm. Ông thường mặc một cái áo vải ta nhuộm màu xanh chàm, bịt khăn nhiễu thâm, đội chiếc nón lá, ngoài ra không có thêm một trang phẩm nào cả. Tuy là một nhà cách mạng nhưng Trần Cao Vân rất nổi tiếng về văn chương thi phú. Lúc thiếu thời, khi còn là một thư sinh, ông luôn tỏ ra là người xuất sắc nhất. Năm 13 tuổi, một hôm thầy học ra câu đối cho học trò tập làm bài. Nhìn thấy giữa lớp học có một cây đèn treo, thầy ra câu đối: Đèn treo giọi sáng bốn phương nhà.

Tuy nhỏ tuổi nhất lớp, nhưng lanh trí nên Trần Cao Vân đã lên tiếng trước và đối lại rằng: Trăng tỏ khắp soi muôn cụm núi.
Năm 1908, khi phong trào Kháng thuế, cự sưu nổ ra ở Quảng Nam, ông bị bắt và bị kết án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo và đến năm 1914 được ân xá. Ra tù, ông tiếp tục tìm đường hoạt động cách mạng. Vào khoảng tháng 9-1915, Trần Cao Vân được Việt Nam Quang Phục Hội ủy nhiệm cùng bạn đồng chí là Thái Phiên tiếp xúc với Vua Duy Tân để mời nhà vua tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Khoảng năm 1916, bấy giờ Trần Cao Vân mới ở Côn đảo về được vài năm, nghe tiếng Vua Duy Tân tuy nhỏ tuổi nhưng thông minh và có khí tiết, ông liền tìm cách liên lạc để tuyên truyền, lôi kéo.
Lúc đầu, Trần Cao Vân liên lạc với một viên đội thị vệ là Nguyễn Quang Siêu, nhờ đó mà ông biết được Vua Duy Tân thường ra chơi hồ Tĩnh Tâm. Trần Cao Vân bèn giả dạng một người câu ếch, lân la đến gần, và đọc những vần thơ cảm khái, lâm ly để khích động lòng yêu nước của nhà vua. Rồi cứ thế, cuộc gặp gỡ và giao thiệp bí mật giữa hai bên càng ngày càng khăng khít mãi.
Ban đầu, vua - tôi đàm luận với nhau về thơ văn, rồi dần dần bàn đến thời thế, đến khả năng một cuộc khởi nghĩa chống Pháp cứu nước. Trần Cao Vân muốn nhờ vua dò xem ý tứ của Nguyễn Hữu Bài là tên quan thượng thư có thế lực lúc bấy giờ. Muốn công việc khỏi bị bại lộ, Trần Cao Vân đọc cho vua một vế đối thác lời vua để thử Nguyễn Hữu Bài. Vế đối rằng: Ngồi trên nước khôn toan việc nước, trót buông câu sở dĩ phải lần.
Vua y lời, mời Nguyễn Hữu Bài vào cung thăm hỏi, cuối cùng vua đọc vế đối mà vua nói là chưa nghĩ ra được vế thứ hai và đề nghị Bài nghĩ giúp. Bài là một tên Việt gian khét tiếng gian ác, có bao giờ nghĩ đến việc thương nước, thương dân?. Nhưng thấy vua có giọng cảm khái như vậy, chẳng lẽ lại trâng tráo tự vạch rõ tim đen của mình, hắn cũng giả vờ thở than chán nản rồi đối lại rằng: Ngẫm sự đời mà ngán cho đời, liều nhắm mắt tới đâu hay đó.
Người xưa cho rằng “Văn là người”, vì thế khi Trần Cao Vân nghe vua truyền lại vế đối của Nguyễn Hữu Bài, ông đã biết rõ là không thể trông mong gì về con người ấy nữa.
Lời bàn:
Theo các tài liệu lịch sử còn lưu lại, vì một sơ suất từ Quảng Ngãi nên kế hoạch khởi nghĩa của Trần Cao Vân bị bại lộ. Các lãnh tụ khởi nghĩa như Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu cùng Vua Duy Tân đều bị thực dân Pháp bắt. Vì thế, cuộc nổi dậy ngỡ như long trời lở đất đã không xảy ra. Sau đó, Trần Cao Vân nhận hết lỗi về mình. Từ trong ngục, ông viết thư gửi đại thần Hồ Đắc Trung, mong bảo toàn sinh mạng cho nhà vua trẻ tuổi, để rồi ngày 17-5-1916 ông cùng các đồng chí của mình ra pháp trường An Hòa, hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Với nhà chí sĩ yêu nước Trần Cao Vân thì 21 tuổi ông đã thoát ly gia đình, 27 tuổi bước chân vào cuộc tranh đấu đòi giải phóng dân tộc, 33 tuổi vào ngục ở Phú Yên, 35 tuổi vào ngục Bình Định và Quảng Nam, 43 tuổi vào ngục Côn Đảo, đến năm 51 tuổi ông anh dũng đền nợ non sông. Như vậy, Trần Cao Vân đã hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp cũng như bản lĩnh và khí phách anh hùng của ông thật đáng tự hào, đáng được hậu thế tôn vinh và ngưỡng mộ. Bản lĩnh của dân tộc Việt Nam là vậy, xin đừng ai quên điều này và cả bài học đo lòng người của chí sĩ Trần Cao Vân.
N.D
                            
                    
                    
                        Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc                    
                
                    
                    
                        Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý                    
                
                    
                    
                        Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước                    
                
                    
                    
                        Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính                    
                
                    
                    
                        Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026