Thứ 3, 04/11/2025 19:50:25 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 12:29, 28/10/2016 GMT+7

Người thầy số một

Thứ 6, 28/10/2016 | 12:29:00 231 lượt xem

BP - Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, vào khoa thi đình năm 1374, cả kinh thành Thăng Long như chấn động vì ba ngôi đầu bảng vàng, gồm: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa đều lọt vào tay ba người học trò của nhà giáo họ Đào. Đó là Đào Toàn Bân, ông còn có tên gọi khác là Đào Toàn Mân, Đào Toàn Phú. Ông là một danh nhân khoa bảng, nhà giáo tiêu biểu đời Trần. Ông quê ở làng Song Khê, xã Song Khê, huyện Yên Dũng, nay là thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

Thuở nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi, sách vở đọc qua một lần là thuộc. Năm mới 16 tuổi (1324), ông đi thi hương và đỗ đầu. Người dân làng Song Khê chào đón và rất tự hào về ông, bởi ông được xem là người đầu tiên mang vinh quang khoa bảng về quê, đồng thời là tấm gương động viên lớp hậu sinh noi theo học tập, tạo nên truyền thống hiếu học của vùng đất này cho đến ngày nay.

Minh họa: S.HMinh họa: S.H

Tuy đỗ đạt sớm nhưng Đào Toàn Bân không ra làm quan mà mở trường dạy học, trước là làm kế sinh nhai, sau có thời gian đọc thêm sách thánh hiền. Có lần ông đã nói với học trò của mình rằng: Bể học mênh mông, chỉ tiếc đời người có hạn. Vì thế cho nên lúc nào tay cũng cầm cuốn sách. Nhiều người thấy cuộc sống của ông nhà giáo nghèo luôn thiếu trước hụt sau nên khuyên ra làm quan, vừa ấm thân vừa có quyền cao chức trọng, ông lắc đầu, quyết làm theo sở nguyện của mình. Thời gian qua nhanh, chàng thanh niên ngày nào giờ đã bước qua tuổi trung niên. Năm 1352, vua Trần Dụ Tông mở khoa thi thái học sinh. Đào Toàn Bân cũng chưa có ý định đi thi, nhưng một hôm vợ ông nói: Phu quân đã bao năm đèn sách, kinh nghĩa trong thiên hạ chắc đã đủ đầy, sẵn lần này triều đình mở khoa thi nên thử một phen, chứ đợi đến lần sau thiếp e không còn cơ hội. Năm đó, Đào Toàn Bân đã 44 tuổi. Hiểu ý vợ nói rằng nay ông đã lớn tuổi rồi, nếu không thi thì cơ hội ngày càng ít dần. Vì thế, ông liền đăng ký dự thi và quả nhiên năm ấy đỗ ngay tiến sĩ đệ nhị giáp. Lại lần nữa dân làng Song Khê tự hào và ca ngợi ý chí học tập của ông.

Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan ở Phủ Thiên Trường (thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định ngày nay). Ông đã đưa một phần gia đình xuống đây và vận động nhân dân trong vùng khai hoang lập ấp, lấy tên là làng Song Khê để nhớ về quê cũ của mình. Trên đường hoạn lộ, ông được thăng đến chức Lễ Bộ thượng thư, Tham tri thẩm hình viện sự. Tuy ra làm quan to trong triều nhưng Đào Toàn Bân vẫn dành thời gian cho việc dạy học. Xã hội Việt Nam thế kỷ XIV, giáo dục chưa phát triển, trường học hiếm hoi, thầy giáo giỏi lại càng hiếm hoi. Bởi vậy phần lớn những người đỗ đạt đều tham gia vào việc dạy học. Lớp học thường mở tại nhà thầy, từ vài trò đến hàng trăm tùy theo uy tín và tiếng tăm của người thầy.

Đào Toàn Bân cũng tham gia vào việc giảng dạy học trò ở nhà mình. Trong số học trò có con trai ông tên là Đào Sư Tích. Năm Giáp Dần niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1374), triều đình mở khoa thi đình, các học trò của nhà giáo Đào Toàn Bân cũng dự thi. Ngày bảng vàng được công bố, cả kinh thành Thăng Long như chấn động vì tin ba ngôi đầu đều do học trò của nhà giáo họ Đào chiếm lĩnh. Trạng nguyên là Đào Sư Tích, Bảng nhãn là Lê Hiến Phủ, Thám hoa là Trần Đình Thám. Chưa kể có thêm một học trò nữa đỗ tiến sĩ là Lê Hiến Tứ. Thật là chuyện xưa nay hiếm trong lịch sử khoa bảng vậy.

Đào Sư Tích sau này làm đến Nhập nội hành khiển. Trần Đình Thám làm đến chức Trung thư thị lang kiêm Tri thẩm hình viện sự, sau này có đi sứ nhà Minh. Lê Hiến Giản và Lê Hiến Tứ là anh em sinh đôi. Hiến Giản làm quan đến chức Thị lang đại học sĩ, Tri thẩm hình viện trông coi việc pháp luật của triều đình; Lê Hiến Tứ làm quan Hạ đại phu và được vua điều đi trấn thủ Cao Bằng, có công dẹp giặc tại vùng Quảng Nguyên (nay là tỉnh Quảng Ninh), được thăng chức Trung lang tướng quân và Trấn nam tướng quân.

Đương thời, danh sư Chu Văn An nghe tin cũng bày tỏ sự thán phục tài năng và công lao giảng dạy của nhà giáo Đào Toàn Bân và đã tặng ông bốn chữ “Đại sư vô nhị”, nghĩa là người thầy có một không hai.

Lời bàn:

Lịch sử khoa bảng Việt Nam thời các triều đại phong kiến có rất nhiều trường hợp vừa là cha, là thầy dạy học vừa là học trò lại là con và có cả trường hợp cha, con cùng đi thi một khóa. Tuy nhiên, duy nhất chỉ có một trường hợp cha là tiến sĩ dạy con và con đi thi đỗ Trạng nguyên, đó là người cha Đào Toàn Bân và người con là Đào Sư Tích. Và theo nội dung của giai thoại trên thì danh hiệu “Đại sư vô nhị” mà nhà giáo Chu Văn An tặng ông quả là xứng danh. Bởi trong một khoa thi mà thầy giáo Đào Toàn Bân có tới 4 học trò thi đỗ, trong đó có một người đỗ Trạng nguyên, một người đỗ Bảng nhãn, một người đỗ Thám hoa và một người đỗ tiến sĩ.

Thế mới hay câu nói của người xưa rằng “cha nào con nấy” chẳng hề sai. Và thực tế cuộc sống từ thượng cổ cho tới nay đã chứng minh rằng, gia đình là lớp học hữu ích nhất đối với con trẻ. Một gia đình có người mẹ thảo hiền, một người cha mẫn cán thì chí ít cũng có những người con ngoan hiền. Tiếc rằng thời nay, không phải ai cũng hiểu và làm được điều này. Thậm chí có người còn phó mặc việc dạy bảo con em cho nhà trường, xã hội. Khi con cái không thành danh hoặc lâm vào con đường tội lỗi thì họ lại đổ tội cho các thầy cô giáo, cho môi trường giáo dục và cho cả xã hội, thật đáng buồn thay.

N.D

  • Từ khóa
109852

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu
Năm 2023 Bình Phước đứng thứ bao nhiêu xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, thành cả nước?