BP - Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Nghệ Tông là vị hoàng đế có quyền lực tối cao cuối cùng của hoàng tộc họ Trần. Công lao lật đổ Dương Nhật Lễ và khôi phục cơ đồ cho triều đại nhà Trần đã mang lại danh tiếng một đời cho ông. Tuy nhiên, ông cũng chịu trách nhiệm chính cho việc hoàng vị họ Trần rơi vào tay của ngoại thích Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly), em họ bên ngoại của ông, do lúc sinh thời ông đã dung túng Quý Ly, giết hại tôn thất họ Trần. Do đó, dẫu được ca ngợi là người có “công nghiệp lớn lao” nhưng ông cũng bị sử sách phê phán là nhu nhược, “nối giáo cho giặc”, làm cho cơ nghiệp họ Trần đến thời kỳ cáo chung.
Cũng theo sách trên, ít lâu sau khi lên ngôi, Trần Nghệ Tông lên làm Thái thượng hoàng vào năm 1372, nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông hoàng đế tử trận trong cuộc tiến công Chiêm Thành và bất chấp Đỗ Tử Bình là kẻ tội đồ cho cuộc thảm bại này, Nghệ Tông lại nương tay với Đỗ Tử Bình. Chiêm Thành nhân đó dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga liên tiếp quấy nhiễu Đại Việt, đánh vào đến tận kinh sư. Họa Chiêm Thành chỉ lắng xuống khi quân Đại Việt dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Khát Chân thắng lớn vào năm 1390.

Năm 1388, Trần Nghệ Tông phế truất Trần Phế Đế, vì Phế Đế có ý mưu trừ gian thần là Hồ Quý Ly. Sau đó, Trần Nghệ Tông lập con nhỏ của mình là Trần Thuận Tông làm người kế vị và tiếp tục nắm đại quyền họ Trần trong một thời gian dài. Trong lúc này, Hồ Quý Ly tìm mọi cách để gây dựng thanh thế, xúi bẩy, xàm tấu và giật dây khiến Trần Nghệ Tông xuống tay trừ giúp các đối thủ chính trị của Hồ Quý Ly, đặc biệt là các tôn thất hoàng tộc họ Trần.
Tháng 6 năm Quý Hợi (1383), quân Chiêm Thành do Chế Bồng Nga cầm đầu lại tấn công Đại Việt. Quân giặc mới đến Quảng Oai (vùng Ba Vì, Hà Nội ngày nay), kinh sư đã nháo nhác lo sợ. Tướng Lê Mật Ôn đem quân ra chống giữ nhưng chẳng may bại trận và bị giặc bắt. Lúc đó, triều thần càng lắm kẻ hoảng hốt bỏ của chạy tháo thân. Nhiều quan đại thần bỏ cả vua và quan phục để tháo chạy cùng gia quyến.
Trong lúc vận nước lâm nguy, dân cần có người trấn an thì Thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã vội vã lên thuyền ngự, bỏ chạy lên mạn Đông Ngàn (Bắc Giang). Ngay lúc đó, có người học trò là Nguyễn Mộng Hoa thấy vậy thì tức lắm, liền liều mạng mặc nguyên áo mũ mà lội xuống nước, đưa tay giữ thuyền ngự, khẩn thiết xin Thượng hoàng Nghệ Tông ở lại chỉ huy quan quân đánh giặc, chớ nên vội đi lánh nạn mà làm nản lòng người. Mặc dù vậy nhưng Thượng hoàng Trần Nghệ Tông vẫn cho thuyền đi gấp, không đếm xỉa gì đến lời của Nguyễn Mộng Hoa. Mãi đến 6 tháng sau, Thượng hoàng Nghệ Tông mới trở lại kinh đô Thăng Long. Trong khoảng thời gian 6 tháng đó, Nghệ Tông chỉ biết vui thú ở vùng Tiên Du (Bắc Ninh), cùng đám hầu cận để viết bộ sách Bảo Hòa dư bút gồm 8 quyển, nói là dùng vào việc dạy bảo quan gia, tức vua Trần Phế Đế, khi ấy mới 16 tuổi.
Thế nhưng việc Trần Nghệ Tông lo dạy dỗ vua nhỏ Trần Phế Đế và cũng là cháu nội của mình như thế nào thì không ai hay, cũng chẳng ai hiểu rõ, mà chỉ biết đến tháng chạp năm Mậu Thìn (1388), nghe theo lời xàm tấu của Hồ Quý Ly, chính Thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã ra lệnh bắt giam và sau đó ép Phế Đế phải thắt cổ tự tử. Sau sự việc này, triều thần tất thảy đều nản chí, chẳng ai còn dám can ngăn.
Năm 1394, Trần Nghệ Tông bệnh nặng, từ lâu đã rõ dã tâm của Hồ Quý Ly nên sai người vẽ tranh “Tứ phụ”, lấy các tích cổ việc Chu Công giúp Chu Thành Vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hán Hậu chúa, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông, với ý răn đe Quý Ly trợ giúp Trần Thuận Tông, từ bỏ dã tâm cướp ngôi nhà Trần. Hồ Quý Ly khóc tạ theo. Thế nhưng cuối năm ấy, sau khi Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly nắm đại quyền trong tay và tiến hành phế bỏ Trần Thuận Tông, dần dần trừ đi các tôn thất cản đường là Thượng tướng Trần Khát Chân và Thái bảo Trần Nguyên Hãn. Đến năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi, lập ra triều đại nhà Hồ.
Lời bàn:
Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn ghi lại lời bàn của sử gia Ngô Sĩ Liên về việc Trần Nghệ Tông bỏ ngai vàng và dân chúng trong kinh thành để tháo chạy trước quân Chiêm Thành như sau: Trần Nghệ Tông thiếu can đảm. Giặc chưa tới đã lánh trước thì người trong nước sẽ ra sao? Nguyễn Mộng Hoa tuy chỉ là một học trò mà còn biết giữ Nghệ Tông lại, những kẻ ăn thịt - ý chỉ đám quan quân nhà Trần thời ấy, hưởng bổng lộc của vua ban, nhưng chẳng ai dám can ngăn, thật đáng khinh thay.
Và không phải chỉ có người xưa mà hậu thế ngày nay khi đọc lại giai thoại trên cũng cảm nhận được điều đáng trách đối với Thượng hoàng Trần Nghệ Tông vì quá yếu bóng vía, nói đúng hơn là quá hèn nhát. Một vị vua mà bỏ mặc trăm họ trước mũi giáo của quân xâm lược thì hỏi còn làm vua được với ai. Vậy mà sau khi quân giặc rút, Trần Nghệ Tông lại còn muốn viết sách để dạy con, dạy cháu và dạy đời. Thế mới hay rằng, kẻ nhát gan thường hay khua môi múa mép, kẻ thất đức lại giảng dụ về đạo hạnh, kẻ mù chữ lại muốn khắp thiên hạ phải gọi mình bằng thầy. Thật đáng buồn là không phải chỉ có ở ngày xưa và chỉ vào thời Trần, mà ở đâu, thời nào cũng có những kẻ như vậy.
ND
                            
                    
                    
                        Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc                    
                
                    
                    
                        Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý                    
                
                    
                    
                        Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước                    
                
                    
                    
                        Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính                    
                
                    
                    
                        Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026