BP - Hồ Tông Thốc sinh ra và lớn lên tại xã Kẻ Cuồi, nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Năm 17 tuổi, ông đi thi và đậu tiến sĩ. Theo các tài liệu lịch sử thì vào những năm Thiệu Khánh đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), Hồ Tông Thốc thi đậu Trạng nguyên, làm quan đến chức Hàn lâm học sĩ. Tuy nhiên, danh sách đậu trạng nguyên trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” lại không có tên ông. Cũng trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Thông định Việt sử khâm giám cương mục” đều thống nhất ở thông tin ông đỗ cao khi tuổi trẻ, chứ không nhắc tới việc ông đỗ trạng nguyên. Ông cũng từng làm An phủ sứ và đã có lần đi sứ Trung Quốc. Vào những năm cuối niên hiệu Xương Phù đời Trần Phế Đế (1377-1388), Hồ Tông Thốc được thăng nhiều lần, đến chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, rồi Trung thư lệnh.
Hồ Tông Thốc là cháu đời thứ 5 của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, ngang thế thứ với Hồ Quý Ly. Cha ông là Hồ Cao, người có công khai cơ lập ấp vùng Quỳ Trạch, Yên Thành. Khi nhà Hồ (1400-1407) lên nắm quyền, Hồ Tông Thốc về hưu và mất ở nhà, thọ hơn 80 tuổi. Theo sách “Đại Việt thông sử” của Lê Quý Đôn và “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, Hồ Tông Thốc có soạn các tác phẩm sau đây: Việt sử cương mục; Thảo nhàn hiệu tần tập; Việt Nam thế chí; Phú học chỉ nam. Ngoài ra, ông còn hiệu đính Hình thế địa mạch ca do Trần Quốc Kiệt biên soạn. Nhưng những tác phẩm nói trên của ông đều bị thất lạc, cho đến nay mới chỉ tìm thấy 1 bài thơ và 2 bài văn xuôi.
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, trong thời gian đi sứ sang Trung Quốc, Hồ Tông Thốc đã sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc. Tương truyền, lúc đi thuyền trên sông Ô Giang, khi qua miếu thờ Hạng Vũ (danh tướng tranh nghiệp đế với Lưu Bang), thường ai đi qua cũng phải đốt hương và vàng mã để cúng lễ mới yên ổn, nhưng Hồ Tông Thốc cho thuyền đi thẳng. Một lát sau, trời bỗng dưng nổi gió to và mặt sông cuộn sóng ầm ầm, thuyền tròng trành như muốn lật. Lúc đó, Hồ Tông Thốc bình thản đứng trước mũi thuyền đọc thơ rằng: Quân bất quân hề, thần bất thần; Như hà miếu mạo tại Giang Tân; Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu; Hà tích thiên tiền bách vạn càn? Nghĩa là: Chẳng phải vua chẳng phải tôi; Bên sông miếu mạo để thờ ai? Giang Đông ngày ấy còn chê nhỏ; Tiền giấy nay sao lại cố đòi?
Nguyên ngày trước, Hạng Vũ đánh cho Lưu Bang thua liểng xiểng, nhưng về sau lại bị Lưu Bang đánh bại, Hạng Vũ uống rượu vĩnh biệt nàng Ngu Cơ, rồi cùng tàn quân chạy đến sông Ô Giang. Khi đó, người đình trưởng mời Hạng Vũ xuống thuyền để sang Giang Đông lập căn cứ nhằm khôi phục cơ nghiệp về sau, nhưng lúc đó Hạng Vũ chê đất ấy hẹp và quay lại đánh nhau đến chết. Hồ Tông Thốc đọc xong bài thơ ấy, tự nhiên gió lặng sóng yên. Sau đó, Hồ Tông Thốc làm bài thơ khác nói về sự nghiệp và tính cách hảo hán của Hạng Vũ, dán ở miếu thờ nhân vật này. Từ đó mọi người đi qua miếu không phải đốt vàng mã nữa.
Lại có chuyện Hồ Tông Thốc sửa thơ Vương Bột - người được tôn là thi bá Trung Quốc. Chuyện xưa kể rằng, một hôm đô đốc Hồng Châu mở hội thơ và bảo người con rể làm bài tựa gác Đằng Vương, sau đó mới mời khách hạ bút. Ý của đô đốc Hồng Châu là muốn khoe tài chàng rể. Mọi người còn do dự thì Vương Bột cầm bút hạ ngay bốn câu, trong đó có hai câu được truyền tụng là tuyệt cú, như sau: Lạc hà dự cô vụ tề phi; Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. Nghĩa là: Ráng chiều với cánh cò cô độc cùng bay; Làn nước thu với bầu trời một màu. Rất nhiều năm sau khi Vương Bột chết rồi người ta vẫn thường nghe tiếng ngâm hai câu thơ ấy trên mộ ông. Hồ Tông Thốc nghe xong câu chuyện ấy và nói: Có gì mà tuyệt cú! Câu nào cũng thừa một chữ: Đã dự sao còn tề, đã cộng sao còn nhất? Vì trong chữ Hán, chữ “dự” với chữ “tề” và chữ “cộng” với chữ “nhất” có nghĩa tương đương nhau. Và từ đó, người dân trong vùng không còn một ai nghe tiếng ngâm thơ trên mộ Vương Bột nữa.
Lời bàn:
Theo sách “Lịch sử Trung Hoa”, Hạng Vũ được xem là chiến binh vô địch, là người “vạn phu bất đương chi dũng”, tức là có sức đánh được cả vạn người, trong thời đại ông sống, khi ra trận tay cầm thương, cưỡi ngựa Ô Truy dẫn đầu lao vào quân địch, đi đến đâu giặc đều hoảng sợ bỏ chạy. Thế nhưng Hạng Vũ lại là người “hữu dũng vô mưu” nên phải bỏ mạng ở sông Ô Giang. Còn Vương Bột được xem là một trong những “Sơ Đường tứ kiệt”, là bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường, gồm: Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương. Mà thơ Đường được xem là đỉnh cao của nền văn hóa Trung Hoa thời phong kiến. Thế nhưng cả hai nhân vật của Trung Hoa tiếng tăm lừng lẫy một thời là vậy, song vẫn bị Hồ Tông Thốc buộc phải khuất phục tài năng của mình.
Chỉ với giai thoại trên cũng đã đủ biết Hồ Tông Thốc là người như thế nào. Bởi thế, các sử gia đương thời nhận định rằng, ông không chỉ là nhà thơ, sử gia tài năng, mà còn là người đa tài. Ông để lại khá nhiều tác phẩm, như: Việt sử cương mục, Việt nam thế chí, Thảo nhàn hiệu tần thi tập, Báo ân viện bi minh, Phú học chỉ nam, Hành thế địa? Hồ Tông Thốc quả là tấm gương về học vấn, niềm tự hào cho các thế hệ hôm nay và mãi mãi về sau.
ND