BP - Tháng giêng năm Nhâm Thân (1272), dưới triều vua Trần Nhân Tông trị vì, Chưởng sử quan Lê Văn Hưu đã hiến dâng bộ quốc sử lấy tên là Đại Việt sử ký. Đây là bộ sử đầu tiên của nước Đại Việt ta gồm 30 quyển. Lê Văn Hưu là nhà sử học đời nhà Trần và là tác giả bộ Đại Việt sử ký. Đây là bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Bộ sách này tuy không còn nhưng nhờ nó mà sử gia Ngô Sĩ Liên đã dựa vào để soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư.
Lê Văn Hưu sinh năm Canh Dần (1230) là người làng Thần Hậu (tục gọi Kẻ Rỵ), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm Đinh Mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình đời vua Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu đi thi và đỗ Bảng nhãn khi mới 17 tuổi. Đây là khoa thi đầu tiên ở Việt Nam có đặt danh hiệu Tam khôi. Sau khi thi đỗ, ông được giữ chức Kiểm pháp quan, rồi Binh bộ Thượng thư, sau đó Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu. Ông cũng là thầy học của Thượng tướng Trần Quang Khải. Trong thời gian làm việc ở Quốc sử Viện, theo lệnh vua Trần Thái Tông, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu Lê Văn Hưu đã hoàn thành việc biên soạn Đại Việt sử ký - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam - ghi lại những sự việc quan trọng chủ yếu trong một thời gian lịch sử dài gần 15 thế kỷ, từ Triệu Vũ đế, tức Triệu Đà cho tới Lý Chiêu Hoàng. Đại Việt sử ký hoàn thành năm 1272 và được Trần Thánh Tông xuống chiếu ban khen.
Theo sử gia Trần Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược, Đại Việt sử ký là bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Sau khi xâm lược Đại Ngu, nhà Minh đã đưa sách của nước Nam về Trung Quốc, trong đó có 30 quyển Đại Việt sử ký, những sách ấy đã thất lạc. Hai trăm năm mươi năm sau, sử quan Ngô Sĩ Liên, đời vua Lê Thánh Tông, soạn lại bộ Đại Việt sử ký chép từ họ Hồng Bàng đến vua Lê Thái Tổ. Trong bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: “Văn Hưu là người chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là bậc cổ lão của thánh triều ta, đều vâng chiếu biên soạn lịch sử nước nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại, tập hợp thành sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa, thế là được rồi”.
Ngay từ khi còn nhỏ, Lê Văn Hưu đã nổi tiếng thần đồng. Chuyện xưa kể lại rằng, hồi Lê Văn Hưu là học trò thầy họ Nguyễn ở làng Cổ Bôn, hằng ngày đi học thường dừng chân bên quán thợ rèn ở đầu làng để xem. Một hôm, Lê Văn Hưu xách túi đứng xem bác thợ rèn đang làm dùi xiên và tò mò hỏi:
- Bác này! Ông tổ nghề rèn của ta là ai đó?
Thấy thằng bé mới lên 10 tuổi mà đã biết hỏi vặn vẹo, bác thợ rèn liền ra câu đối, đối được thì được thưởng, không đối được thì phải ở đây quai búa, khi nào đối được mới cho về! Bác thợ rèn chỉ vào lò rèn đọc:
- Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò, rèn nên dùi sắt. Đối đi!
Lê Văn Hưu cười: Chả khó mấy! Nói xong Lê Văn Hưu vỗ vào túi rồi đối ngay: Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi, giật lấy khôi nguyên!
Bác thợ rèn trợn tròn mắt khen: Ta xin thua rồi đó!
Nói rồi bác thưởng cho Lê Văn Hưu 30 đồng tiền để mua giấy bút. Quả nhiên, qua dùi mài kinh sử, năm Đinh Mùi (1247), Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn vào đúng lúc 17 tuổi. Ông làm quan dưới 3 triều vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Năm 1275, ông được giữ chức Binh bộ Thượng thư. Ông mất năm 1322, thọ 93 tuổi.
Lời bàn:
Mặc dù các tác phẩm của Lê Văn Hưu không còn tồn tại đến ngày nay, song trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” của sử gia Ngô Sĩ Liên đang lưu hành vẫn còn có 29 đoạn ghi rõ là lời văn của Lê Văn Hưu. Và qua những trích đoạn đó, hậu thế có thể thấy được phần nào khuynh hướng cũng như sắc thái ngọn bút chép sử của ông. Lê Văn Hưu trân trọng công lao đánh giặc giữ nước của tổ tiên, ông đã nhận định về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng với những lời lẽ rất mực hào hùng: Trưng Trắc, Trưng Nhị... hô một tiếng mà các quận Cửu Châu, Nhật Nam, Hợp Phố cùng sáu mươi nhăm thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay... Đoạn ông ca tụng Ngô Quyền cũng thấm đượm lòng tự hào sâu sắc trước thắng lợi huy hoàng của dân tộc: Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy...
Không những thế, ông còn quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của nhân dân, ông cũng nghiêm khắc phê phán những hành vi bạo ngược, trái đạo lý của vua chúa. Cụ thể là trong đoạn nhận xét về cấm lệnh không cho con gái nhà quan lấy chồng trước khi dự tuyển vào hậu cung của Lý Thần Tông, ông đã viết: Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất; thánh nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ sát phu sát phụ không được có nơi có chốn... Cứ theo lời trên thì ông phê phán vua Lý Thần Tông không phải là người có tấm lòng của người làm cha mẹ dân!
N. D

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026