BP - Lê Thánh Tông có tên húy là Hạo, tự là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, là vị hoàng đế thứ 5 của triều đại nhà hậu Lê. Ông trị vì từ năm 1460 đến năm 1497, tổng cộng 38 năm. Trong thời gian tại vị, ông sử dụng hai niên hiệu là Quang Thuận và Hồng Đức, trong đó thời kỳ Hồng Đức có nhiều thành tựu và được tán thưởng nhất nên ông còn được gọi là Hồng Đức Đế.
Lê Thánh Tông tư chất thông minh, học vấn uyên bác, giỏi về xử lý chính trị và văn học, nghệ thuật. Dưới thời đại của ông, nước Đại Việt phát triển rực rỡ về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và trở thành một cường quốc, cũng như đã khiến Quân chủ chuyên chế Việt Nam đạt đến đỉnh cao vàng sơn. Nước Đại Việt từ trước chưa bao giờ cường thịnh và mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng toàn khu vực lớn như thời này - thời kỳ Hồng Đức thịnh thế. Điều đó khiến ông trở thành một trong những vị hoàng đế vĩ đại nhất của lịch sử các triều đại phong kiến ở Việt Nam.
Lên làm vua, Tư Thành ra chùa Huy Văn đón mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao vào cung. Bà Ngô Thị Ngọc Dao nói: “Nay mẹ tuổi đã cao, ăn chay niệm phật đã quen, con để mẹ ở ngoài chùa này, cho yên tĩnh tuổi già”. Nhà vua bèn sai dựng thêm điện cho mẹ ở, tôn làm Quang Thục hoàng thái hậu, hằng tuần ra chùa thăm mẹ. Có lần Lê Thánh Tông ra chùa thăm mẹ về muộn, lúc đó trời nhá nhem tối, khi tiễn chân ra cổng, bà mẹ đi trước, con đi sau và lúc đó có bà già quỳ mọp giữa đường. Ngọc Dao đỡ dậy hỏi han, bà già nói: Nhà tôi có nỗi oan tày trời đã mấy mươi năm nay, phi bà thái hậu thì không ai giải oan cho nhà tôi được, vậy nên dù biết vào đây là phạm trọng tội, tôi vẫn liều chết mong bà thái hậu minh oan cho. Nói xong, bà già đưa lên lá đơn viết sẵn.
Mẹ con trở vào chùa xem kỹ lá đơn, nhà vua không hiểu đầu đuôi câu chuyện, thấy thế thái hậu nói: Mọi việc bà cụ trình trong đơn đều là sự thật. Sở dĩ lâu nay mẹ chưa nói cho con hay là vì con có biết cũng chưa ích gì. Vả lại con còn ít tuổi, sợ có hành động không hay. Sau đó, bà đã kể lại rõ ràng đầu đuôi câu chuyện cho nhà vua nghe. Khi trở về cung, nhà vua suy nghĩ khá lâu. Nhân trong một buổi thiết triều, nhà vua sai quan đọc to lá đơn cho tất cả triều thần cùng nghe. Triều thần đề nghị minh oan cho Nguyễn Trãi, nhà vua nói: “Tiền triều kết án Nguyễn Trãi có đầy đủ chứng cứ pháp lý, nay muốn xóa bản án ấy cũng phải có đầy đủ chứng cứ, có thế mới rõ ràng minh bạch”. Nhà vua bèn xuống chiếu thông báo trong khắp dân gian, ai biết rõ chi tiết vụ án Lệ Chi Viên, viết sớ dâng về triều, nếu là quan sẽ được thăng hai cấp, dân thường được thưởng to, nếu là tội tù, nhẹ thì được tha, nặng thì giảm án, tử tù được miễn tội chết.
Không lâu sau triều đình nhận được lá sớ từ Lạng Sơn đệ về, kể rõ vụ án được dàn dựng như thế nào, đầy đủ mọi chi tiết, người dâng sớ là cháu họ Nguyễn Thị Anh, làm chức Ngự sử thời Bang Cơ, vì trong một tối đỏ đen bị cháy túi vì cờ gian bạc lận của tay thái giám Tạ Thanh nên đã quá tay đánh chết Tạ Thanh, bị tội đồ đày đi Lạng Sơn. Tháng 7-1464, triều đình xét xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, truy phong Kim tử Vinh lộc đại phu Tán Trù Bá, cấp trả lại một trăm mẫu tự điền. Sai tìm xem con cháu còn ai, Phạm Bật đưa Phạm Anh Vũ, người vừa thi đỗ Hương cống ra trình, liền cho làm chức Đồng Tri châu. Theo gia phả họ Nguyễn thì dòng dõi Phạm Anh Vũ đến nay vẫn giữ họ Phạm, cư trú huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
Lời bàn:
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Lê Thánh Tông là người quan tâm sâu sắc tới việc bảo vệ giang sơn xã tắc, gìn giữ chủ quyền quốc gia. Trước những mối đe dọa bởi nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, không chỉ cảnh giác đề phòng mà một số lần Lê Thánh Tông chủ động cho quân Bắc phạt không phải để chiếm đất, giành dân mà là răn đe, làm nhụt tham vọng của giặc và đề cao sức mạnh của Đại Việt. Trong việc tranh luận, đàm phán về vấn đề biên giới, ông chủ trương mềm dẻo nhưng quyết không nhân nhượng. Có lần nhà vua nói với các quan phụ trách việc biên cương rằng: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ đi được, ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc bày tỏ rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”.
Trong 38 năm Lê Thánh Tông làm vua, đất nước đã có 501 người đỗ trạng nguyên, tiến sĩ... Và một khi nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông đã xuống chiếu hủy án và minh oan cho Nguyễn Trãi. Chưa hết, vua Lê Thánh Tông còn cho tạc bia về Nguyễn Trãi với lời vinh danh mà hậu thế muôn đời sau không thể quên: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”. Câu này có nghĩa tấm lòng Ức Trai - Nguyễn Trãi sáng tựa sao Khuê. Chính nhờ vậy mà tên tuổi và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông mãi mãi trường tồn cùng thời gian và đất nước. Và công cuộc giữ nước, cũng như ý chí kiên quyết trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia của ông sẽ còn là bài học vô giá cho hậu thế muôn đời.
N.D
                            
                    
                    
                        Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc                    
                
                    
                    
                        Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý                    
                
                    
                    
                        Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước                    
                
                    
                    
                        Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính                    
                
                    
                    
                        Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026