BP - Khi Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư đi sứ đến Yên Kinh và vào yết kiến, vua Minh muốn thử tài sứ nên ngầm sai trang hoàng cung quán lịch sự, rồi cho viết hai chữ “Kính thiên” treo ở giữa. Sau đó, vua Minh lại cho bày đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh bày nghi vệ sang trọng, như chỗ giường ngự của thiên tử để xem trạng có dám ngồi đó không? Khi sắp đến yến tiệc, họ đưa Trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, một viên quan nhà Minh ra, hạch rằng: Cớ sao sứ lại ngược ngạo vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ nào mà dám nhảy lên ngồi chễm chệ ở đấy?

- Dám thưa, ngài lấy tội gì mà cho sứ thần là ngạo? Tôi thấy biển đề ba chữ “kính nhị nhân”, thực hẳn là ý bản quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi sứ thần xa lại. Ngài dạy thế, chúng tôi quyết không chịu. Vả nghe cổ nhân có nói: Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực. Tôi nghe thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà, người phương xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng, dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa.
Viên quan nhà Minh thấy Trạng nói chẻ hoe như đã rõ ruột gan từ trước, vội vàng lạy tạ mà rằng:
- Xin quý ngài xá lỗi! Nghĩ là buổi ban đầu, thử xem có phải bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh. Đã giỏi mà còn biết trước được như thế còn hề chi?
Một lần, sứ nhà Minh muốn đọ trí cao thấp, bèn xin với vua Lê cho mở hội đánh cờ. Vua Lê lấy làm lo ngại, bèn cho mời Trạng đến để hỏi mẹo. Trạng thưa: “Cứ phúc thư nhận lời, định ngày hội đấu. Hạ thần xin dâng người cao cờ. Người ấy họ Nguyễn, hiện đang giữ chức Thị lang”. Đến ngày hội đấu, Trạng xin đem bàn cờ đặt trong sân rồng để vua Lê đọ trí với sứ nhà Minh và ghé tai vua: Cứ thế, cứ thế. Rồi đem lọng dùi thủng một lỗ, sai Thị lang đứng che lọng cho vua. Đến lúc thi đấu, Thị lang xoay lọng, bóng nắng chiếu vào chỗ nào thời vua nhấc quân đi vào chỗ đấy. Quả nhiên, sứ nhà Minh bị chiếu dồn, không nước gỡ, phải bó gối, chịu thua.
Thua keo này bày keo khác, sứ nhà Minh bèn nghĩ mẹo, cho bào nhẵn cây gỗ, gốc ngọn bằng nhau, rồi cho sơn đen toàn thân cây đề ba chữ trắng vào cây gỗ rằng “Hồ bất thực”. Hỏi quần thần không ai đoán được. Hỏi Trạng, Trạng ứng khẩu tức thì: Hồ bất thực là cáo chẳng ăn. Cáo chẳng ăn thời cáo đói. Cáo đói thời cáo gầy. Cáo gầy là cây gạo! Không tin bổ cây gỗ mà xem.
Bổ ra quả là gỗ gạo. Thấy thế, sứ nhà Minh mồ hôi tuôn ra như tắm mà than rằng: Người nước Nam tài giỏi như vậy, còn lấy trí thuật mà đấu thế nào được!
Ngày ấy, ở Trung Quốc hạn hán kéo dài, nhân có Trạng Lợn sang thăm, vua Minh mời Trạng cầu đảo để thử tài. Trạng Lợn nhận lời, yêu cầu dựng đàn uy nghiêm để ông cầu đảo. Mục đích là để kéo dài thời gian. Khi thấy cỏ gà lang, Trạng bèn lên đàn làm lễ, ông khấn theo cách nói lái: Hường binh, hòa binh, tam tinh, kẹo tinh, bát tinh, linh tinh tinh... Vua Minh nghe thấy khiếp đảm, bái phục Trạng Lợn uyên thâm, tỏ tường thiên văn, thuộc hết ngôi thứ các vị tinh tú trên trời. Khóa lễ vừa xong, lập tức mưa như trút nước, khiến vua Minh đã phục lại càng phục hơn.
Khi Nguyễn Nghiêu Tư về trí sĩ, vua thấy ông có công lớn với xã tắc, bèn gia phong là “Thượng quốc công Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư”, mà dân gian quen gọi với hai tiếng thân thương “Trạng Lợn” - một người nổi tiếng hiếu học, ham hiểu biết, ứng đối thông minh, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
Lời bàn:
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” thì từ khoa thi đầu tiên năm 1075 thời Lý đến khoa thi năm 1736 thời hậu Lê, nước ta có 55 vị trạng nguyên, trong đó có 4 vị là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Đây là danh hiệu cao quý sau khi các vị được vua nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh sắc phong Trạng nguyên. Đó là Mạc Đĩnh Chi triều Trần, Nguyễn Trực, Nguyễn Nghiêu Tư và Nguyễn Đăng Đạo triều hậu Lê. Điều này chứng minh rằng không phải đến bây giờ, mà từ xa xưa người Việt đã được thế giới thừa nhận về tài năng và trí tuệ. Hơn nữa, Trung Hoa là cái nôi của Nho học, thế mà người Trung Hoa từ ngày xưa đã phải kính cẩn tôn vinh người Việt là Trạng nguyên, là Thượng thư của họ. Và điều đáng trân trọng hơn là những trạng nguyên, thượng thư ấy đã mang hết tài trí của mình ra phò vua giúp nước, đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại giao.
Và trong mấy ngàn năm, các triều đại phong kiến Việt Nam đã có chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt trong biện pháp, song hoạt động đấu tranh ngoại giao quốc phòng thì luôn kiên trì và kiên quyết thực hiện nguyên tắc bất biến, đó là khẳng định và giữ vững toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Ngày nay, đấu tranh ngoại giao quốc phòng là sự kế thừa bang giao quốc phòng của tổ tiên ta, là tổng thể các hoạt động đấu tranh trên mặt trận ngoại giao nhằm góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ngăn ngừa, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh xâm lược, tạo môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và củng cố sức mạnh phòng thủ của đất nước. Để nâng cao hiệu quả đấu tranh ngoại giao bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm đấu tranh ngoại giao quốc phòng của cha ông ngày xưa.
ND
                            
                    
                    
                        Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc                    
                
                    
                    
                        Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý                    
                
                    
                    
                        Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước                    
                
                    
                    
                        Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính                    
                
                    
                    
                        Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026