Thứ 3, 04/11/2025 14:12:42 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 14:35, 19/01/2016 GMT+7

Tấm lòng vượt thời đại

Thứ 3, 19/01/2016 | 14:35:00 149 lượt xem
BP - Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Hà Tông Mục sinh ngày 25-9 năm Quý Tỵ -1653. Ông quê ở làng Tỉnh Thạch, huyện Thiên Lộc (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), nằm ở phía nam núi Hồng Lĩnh. Vùng ấy có nhiều danh nhân như Đặng Dung, Đặng Tất... Dòng họ Hà của ông là một dòng họ khoa bảng, các đời đều có người là trụ cột của đất nước như Hà Tông Trình từng là thượng thư bộ Binh, bộ Hình, bộ Công, Tế tửu Quốc Tử Giám dưới thời Lê sơ.

Năm 1673, Hà Tông Mục đỗ Trường Sinh, năm Ất Mão (1675) đỗ đầu khoa thi Hương và khi vào thi Hội ông đỗ Tam Trường. Năm Giáp Tý (1684), ông đỗ đầu khoa Sỹ Vọng, năm Mậu Thìn (1688) ông đỗ Tam Giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Hiện nay, ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội có tấm bia đá tiến sĩ lập năm Vĩnh Thịnh thứ 18 (1717) có tên là Hà Tông Mục đồng tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan tại viện Hàn Lâm, đốc đồng hai xứ Tuyên Hưng, tuần phủ tỉnh An Biên (Hà Giang).

Tháng 4-1697, năm Chính Hòa thứ 18, ông được triều đình nhà Lê phong làm phủ Doãn phủ Phụng Thiên, kinh thành Thăng Long. Cũng năm đó, ông cùng với Lê Huy, Nguyễn Quý Đức và 20 tiến sĩ soạn cuốn lịch sử “Đại Việt sử ký tục biên”. Năm Chính Hòa thứ 20, Hà Tông Mục được triều đình thời vua Lê Dụ Tông giao trọng trách đi đàm phán đấu tranh với đại diện nhà Thanh nhằm ngăn chặn không cho quân Thanh xâm chiếm vùng đất châu Bảo Lạc (thuộc tỉnh Cao Bằng ngày nay). Tháng 4-1699, vua Lê Dụ Tông ra lệnh cho Hà Tông Mục cùng Nguyễn Hành đi kinh lược miền Tây ở châu Bảo Lạc. Ngày ấy, biên giới châu Bảo Lạc giáp với châu Trấn Yên của nhà Thanh.

Vì quân Thanh thường vượt biên giới sang Bảo Lạc để cướp bóc, nhũng nhiễu làm cho nhân dân trong vùng bị đói khổ phải bỏ sản xuất, nhà cửa vào rừng sâu lánh nạn. Quan, quân ở địa phương yếu thế không thể chế ngự được chúng. Hà Tông Mục đến Bảo Lạc nắm tình hình rồi gửi thư cho Sầm Sa Phương là viên quan đại diện của nhà Thanh. Trong thư ông nói rõ lý lẽ và sự việc xảy ra bất ổn cho nền bang giao giữa hai nước. Sầm Sa Phương đáp lại thư, trong đó tỏ ý hổ thẹn và tạ lỗi, xin rút quân về nước. Nhờ đó, nhân dân vùng biên ải Bảo Lạc được an cư lạc nghiệp.

Khi về kinh đô Thăng Long, Hà Tông Mục được chúa Trịnh khen là người có tài ngoại giao và phong làm Tự Khanh hành đô cấp sự trung. Năm Quý Mùi (1703), triều đình cử ông làm chánh sứ sang nhà Thanh để tìm cách giải quyết hòa hiếu giữa hai nước. Do đối đáp, ứng xử thông minh, Hà Tông Mục được vua Khang Hy rất trọng nể, tự tay viết ba chữ “Nhược Xung thiên”, nghĩa là khen ngợi tính khiêm nhường, trí tuệ thông minh, chí khí cao cả.

Sự thành công trong việc giải quyết các vụ xâm lấn biên giới ở Bảo Lạc năm 1699 và lần đi sứ năm 1703 của Hà Tông Mục đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng một thời kỳ bang giao hòa bình, hữu hảo, yên bình giữa biên giới hai nước láng giềng trên nửa thế kỷ. Vì thế, ngày 16-2 năm Giáp Thân (1704), ông được thăng chức Tả thị lang bộ Hình, tước Hoa Linh Nam. Năm Bính Tuất, Vĩnh Thịnh thứ hai (1706), ông được giao giữ chức Tham chính, rồi Thừa chính xứ Sơn Nam. Do bệnh nặng, ông mất ngày 7-3-1707. Vua Lê Dụ Tông thương xót và đã ban đặc sắc phong “Quang Tiến Vĩnh Lộc đại phu” Bồi tụng hình bộ tả thị lang, Hoa Linh Nam có công ngoại giao, làm yên bờ cõi biên cương...

Lời bàn:

Từ năm Ất Mão (1675), sau khi đỗ đầu khoa thi Hương đến năm 1707, trải qua 32 năm làm quan, Hà Tông Mục đã dốc hết tâm sức cho non sông đất nước. Ông là một vị tướng lĩnh tài ba, một nhà ngoại giao xuất sắc, một người viết sử chỉn chu, trung thực. Ông là một trong những tác giả của cuốn sách “Đại Việt sử ký tục biên”, bộ sử lớn của nhà nước phong kiến thời Lê được lưu truyền đến ngày nay. Song, điều mà hậu thế hôm nay cũng như mãi mãi về sau tôn vinh bậc công thần Hà Tông Mục là tấm lòng ân tình và tư tưởng dân chủ, công bằng, yêu thương con người bao la của ông. Ông là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử, vì khi còn sống, nhân dân quý trọng, yêu thương ông mà lập đền thờ gọi là Sinh từ. Trong bia “Sùng Chỉ” ở ngôi đền còn lưu đến ngày nay, có đoạn viết: “Công (tức Hà Tông Mục) đối với quê hương ơn sâu, đức dày, có nhiều công ngăn trừ tai họa, xóm làng đều bội phục, xin tôn thờ công và phu nhân làm hương tổ phụ mẫu...” Đáp lại thịnh tình này, Hà Tông Mục nói: “Việc trung cần đối với nước, việc hiếu thuận đối với nhà, ăn ở hòa mục với dân làng là chức phận đương nhiên của tôi vậy. Sau này kẻ hậu sinh có chí thì noi theo, có lòng thì cảm nhận. Ngày nay mọi người đã suy nghĩ như vậy (lập sinh từ) cũng là lẽ trời, lòng người. Nay xin tự tạ”.

Vâng, chỉ riêng với từng ấy chữ cũng đã là quá đủ để hậu thế ngày nay khẳng định rằng, Hà Tông Mục là một mẫu mực của đạo làm quan, sự toàn vẹn riêng, chung trong con người ông là mẫu mực của đạo làm người. Và xin mượn lời của người xưa viết về ông trong bia “Sùng Chỉ” để thay lời kết bài viết này: “Hà Tông Mục là bậc kiện tướng chốn khoa trường, bậc minh hương nơi văn tự..., lòng nhân vang rộng khắp, dồn sức lực vào việc quốc gia, kính trời, thương người ...Công lao khắp xã tắc, khắc chữ vào vạc, ghi tên lên cờ để chiếu sáng cho hậu thế và lưu đến vô cùng...”. Vâng, tự cổ chí kim có mấy ai được như vậy, thế nên mong rằng hậu thế đừng ai quên.

ND

  • Từ khóa
109752

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu
Năm 2023 Bình Phước đứng thứ bao nhiêu xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, thành cả nước?