Cũng nhờ tài giỏi, ông được giữ chức Tổng trấn Gia Định hai lần, lần thứ nhất khoảng năm 1812-1815 dưới triều Gia Long, lần thứ hai dưới triều Minh Mạng từ năm 1820 đến khi qua đời (1832). Ông là một Tổng trấn tài năng luôn song hành với đức độ và được người dân Nam bộ hết lòng tôn kính. Ông vừa chăm lo đời sống nhân dân vừa trị an xứ sở. Vùng đất Gia Định trải dài từ Bình Thuận tới Cà Mau kinh tế phát triển, đời sống nhân dân yên ổn, no ấm, nhân dân một lòng biết ơn gọi ông là “ông Lớn Thượng”.
Đêm 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (1832), Tả quân Lê Văn Duyệt qua đời sau cơn bạo bệnh. Ông được an táng tại làng Bình Hòa, thuộc quận Bình Thạnh ngày nay. Nhưng chỉ mấy năm sau khi ông mất, bi kịch khủng khiếp đã xảy ra với dòng họ của ông. Do bức xúc với nhà vua trước những bất công đối với tôi tớ của Tả quân mà người con nuôi Lê Văn Khôi khởi binh chống lại triều đình.

Tháng 5-1833, Lê Văn Khôi cùng 27 người trong đạo lính Hồi lương cầm đầu quân sĩ nổi lên chiếm thành Phiên An. Vốn đã nhiều lần “khó ưa” với Tả quân Lê Văn Duyệt nhưng không thể làm gì vì công lao của ông quá lớn, nay sẵn có cơ hội, dù người đã thác, vua Minh Mạng sai người dẹp biến. Cuộc nổi dậy nhanh chóng kết thúc trong cảnh đẫm máu.
Hàng ngàn người theo Lê Văn Khôi bị lôi ra xử chém và chôn chung một hầm tạo nên ngôi “mả Ngụy” trên đất thành. Lấy cớ Lê Văn Duyệt đã dung dưỡng Lê Văn Khôi cùng lính Hồi lương dẫn đến Phiên An binh biến, tội của Lê Văn Duyệt “nhổ từng cái tóc cũng không kể hết”, vua Minh Mạng ra chỉ dụ cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ của Lê Văn Duyệt san bằng mồ mả, xiềng xích khóa lại, dựng bia đá sỉ nhục với 8 chữ “Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử” (nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội). Ông chết vẫn bị kết án 7 tội xử trảm (chém), hai tội xử giảo (thắt cổ), một tội phát quân. Tại Huế, con cháu ông từ 15 tuổi trở lên bị xử trảm hàng loạt. Thân sinh bị tước phẩm hàm, bia mộ bị đục xóa, ruộng điền bị tịch thu, nhà thờ họ tộc ở Quảng Ngãi bị đưa voi về tàn phá. Sự bất công trên khiến nhân dân Gia Định vô cùng đau xót. Giai đoạn thanh tịnh dưới thời Tả quân cũng không còn, người dân mất niềm tin vào nhà Nguyễn. Theo tương truyền, sau khi bị san bằng mộ, vào những lúc trời âm u hay đêm yên tĩnh người dân thường nghe thấy tiếng ma hờn, quỷ khóc, khiến người dân ở đó không ai dám lại gần.
Năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi ban lệnh tha tội cho các thân thuộc của Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Đến năm Tự Đức 2 (1849) nghĩ đến công lao của Tả quân nên vua đã cho nhổ cây bia có khắc 8 chữ, đồng ý cho thân nhân sửa sang xây đắp mộ phần. Sau khi sửa sang những tiếng rên rỉ đêm khuya mới chấm dứt. Đến năm Tự Đức 21 (1868), vua mới phục nguyên hàm cho Tả quân Lê Văn Duyệt. Sau này khi phu nhân của ông là bà Đỗ Thị Phẩn qua đời cũng được chôn cất bên cạnh phần mộ của Tả quân. Khu mộ nhiều lần được tu bổ, cải tạo ngày càng kiên cố hơn.
Qua bao nhiêu thăng trầm cùng thời gian, khu lăng mộ Tả quân Lê Văn Duyệt trở thành địa điểm văn hóa, tâm linh với công trình kiến trúc có giá trị văn hóa, nghệ thuật đặc sắc mang đậm nét truyền thống của vùng đất Nam bộ. Khu lăng mộ Tả quân Lê Văn Duyệt đã được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1988.
Lời bàn:
Không chỉ có tài quân sự, Lê Văn Duyệt còn là một nhà chính trị. Làm Tổng trấn Gia Định Thành hai lần, ông đã thực hiện chính sách trị an tốt, có công lớn trong việc giữ gìn an ninh cho xứ sở. Ông cho đắp đường, đào kênh, củng cố thành lũy. Bấy giờ, nhiều người kính phục, gọi ông là “Đức Thượng Công”. Song, vì ông không ủng hộ việc Minh Mạng lên ngôi mà ủng hộ con của hoàng tử Cảnh khi vua Gia Long băng hà. Điều này đã làm cho nhà vua Minh Mạng khó chịu. Và dù không ưa nhưng vua Minh Mạng chưa thể làm gì Lê Văn Duyệt, vì công lao và uy quyền của ông quá lớn. Cho nên sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1835), triều đình đã khép ông phải chịu 10 tội, trong đó có 7 tội nên trảm (chém), 2 tội nên giảo (thắt cổ), 1 tội phải sung quân.
Mặc dù vậy nhưng đối với người dân Gia Định xưa và miền Nam ngày nay, Lê Văn Duyệt vẫn là người có nhiều công đức đối với đất nước. Hình ảnh, cuộc đời, chiến công của Lê Văn Duyệt đã đi vào tâm thức của người dân và tôn vinh ông là một vị thần. Và từ ngàn xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là những vị quan tòa công minh nhất, với những ai biết lo cho dân có được cuộc sống yên ổn, có được cơ hội để làm ra manh áo, chén cơm thì cũng đủ để thành thần! Và chỉ riêng với điều này cũng đã là quá đủ để Tả quân Lê Văn Duyệt mãi mãi xứng đáng làm tấm gương để mọi người soi rồi biết nói ít, làm nhiều; không vì lợi ích riêng mà quên dân, quên nước...
ND
                            
                    
                    
                        Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc                    
                
                    
                    
                        Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý                    
                
                    
                    
                        Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước                    
                
                    
                    
                        Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính                    
                
                    
                    
                        Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026