Thứ 3, 04/11/2025 14:12:54 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 13:42, 12/01/2016 GMT+7

Xứng danh trạng nguyên

Thứ 3, 12/01/2016 | 13:42:00 482 lượt xem
BP - Lê Nghi Dân là vua thứ tư của nhà Hậu Lê giai đoạn Lê sơ, ở ngôi 8 tháng, từ tháng 10 năm Kỷ Mão - 1459 đến tháng 6 năm Canh Thìn - 1460, với niên hiệu là Thiên Hưng. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” thì Lê Nghi Dân sinh năm Kỷ Mùi (1439) là con trưởng vua Lê Thái Tông và mẹ là Dương Thị Bí. Vừa ra đời được 3 tháng, Lê Nghi Dân được lập làm thái tử.

Những tưởng như thế là điều kiện tốt để Nghi Dân trở thành hoàng đế nối nghiệp trong tương lai, không ngờ bà Dương phi cậy được Lê Thái Tông yêu quý nên có ý tự mãn, kiêu căng, vua bèn giáng làm Minh nghi. Bà oán vọng ra mặt, vua có ý ghét hơn, lại ghét luôn cả người con do bà sinh ra, vì thế đã truất ngôi vị thái tử của Nghi Dân, giáng làm Lạng Sơn vương rồi ra chiếu bá cáo thiên hạ rằng, ngôi thái tử chưa xác định. Nhưng ngay năm đó, vua Thái Tông vì yêu Nguyễn Thị Anh nên đã lập Bang Cơ mới vài tháng tuổi lên làm thái tử. Chỉ 1 năm sau (1442), bất ngờ xảy ra vụ án Lệ Chi Viên dẫn đến cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông lúc mới 20 tuổi. Thái tử Bang Cơ được lập lên ngôi, tức vua Lê Nhân Tông.

Lớn lên, mang trong mình tâm trạng bực tức, Lê Nghi Dân âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ đoạt lại ngai vàng lẽ ra sẽ là của mình. Ngày 3-10 năm Kỷ Mão (1459), Lê Nghi Dân cùng viên chỉ huy sứ Lê Đắc Ninh, là người chỉ huy vệ binh làm nội ứng, cùng các thủ hạ tin cậy là Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng và hơn 100 quân ban đêm bắc thang chia làm ba đường vào cung cấm giết chết Lê Nhân Tông ở tẩm điện, rồi sáng sớm hôm sau giết thái hậu Nguyễn Thị Anh.

Lê Nghi Dân lên ngôi, ban chiếu “đại xá”.  Năm Canh Thìn (1460), Lê Nghi Dân còn sai sứ sang phương Bắc cầu thân, qua đó muốn ngăn nhà Minh không lấy việc mình cướp ngôi làm cái cớ để xâm lược. Việc tối quan trọng này vua đặt hết niềm tin vào Nguyễn Nghiêu Tư, người có biệt danh là Trạng Lợn. Nguyễn Nghiêu Tư tên hiệu là Tùng Khê, tên tự là Quân Trù, người xã Phú Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448) đời Lê Nhân Tông.

Giai thoại lưu truyền rằng, đêm trước ngày thi Đình, vua Lê Nhân Tông có một giấc mộng lạ. Nhà vua nằm mơ thấy lợn đỗ Trạng, lúc tỉnh dậy lấy làm kinh ngạc. Khi danh sách những người đỗ được công bố, vua xem thấy tên Nguyễn Nghiêu Tư đứng đầu liền cho tuyên triệu vào hỏi chuyện, lúc đó mới biết ông sinh tháng Hợi nên hồi nhỏ có tên là Trư (Lợn). Từ đó, trong dân gian gọi ông là Trạng Lợn. Sau khi đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Nghiêu Tư được bổ làm quan, dần thăng đến chức An phủ sứ, Hàn lâm học sĩ.

Biết ông là người có tài trí thông minh, ứng đối nhanh nhạy, Lê Nghi Dân phong làm Chánh sứ dẫn đầu đoàn sứ bộ sang cầu phong. Khi đoàn sứ bộ nước Đại Việt vào yết kiến, đưa biểu cầu phong, vua Minh Anh Tông hạch sách rằng, sao Nghi Dân dám giết em để cướp ngôi vua? Ta không chấp thuận tờ biểu này. Chánh sứ Nguyễn Nghiêu Tư liền đáp ngay: Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) giết cả anh là Lý Kiến Thành và em là Lý Nguyên Cát. Đó cũng là việc cũ của “thiên triều” thì việc nước tôi ngày nay có gì mà lạ.

Viện dẫn ngay chuyện vì tranh giành ngôi báu, các con của vua Đường Cao Tổ đã xảy ra sự chém giết. Lý Thế Dân cho phục binh nấp sẵn trước cửa Huyền Vũ rồi bất ngờ xông ra giết chết anh trai là thái tử Lý Kiến Thành và em trai là Lý Nguyên Cát, sau đó còn giết hết 10 người cháu là con của Kiến Thành và Nguyên Cát nhằm diệt trừ hậu họa. Vua Minh Anh Tông nghe xong lời đối đáp của Nguyễn Nghiêu Tư thì cứng lưỡi, không có cớ nào bắt bẻ được nữa nên đành chấp nhận tờ biểu văn. Lập được công lớn, sau khi đi sứ phương Bắc trở về, Nguyễn Nghiêu Tư được vua Lê Nghi Dân phong lên chức Lại bộ Thượng thư, chưởng lục bộ.

Lời bàn:

Khi nhắc tới ngoại giao của một quốc gia nghĩa là nói đến quan hệ của nước đó đối với cộng đồng quốc gia chung quanh và quan hệ do xuất phát từ yêu cầu tạo một môi trường quốc tế thuận lợi để đất nước sinh tồn và phát triển. Từ mấy ngàn năm nay, người Việt Nam chúng ta tự hào về ông cha mình không những đánh giặc giỏi mà ngoại giao cũng tài ba. Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư là một minh chứng, bởi ông là một trong số những nhà ngoại giao kiệt xuất của nước ta ở thế kỷ XV, nhất là việc giao tiếp, ứng đối với sứ giả nhà Minh.

Theo sử sách thì ngay từ nhỏ, Nguyễn Nghiêu Tư đã là người chăm lo đèn sách, khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay ông vẫn cầm que nhọn vạch xuống đất hoặc viết vào lá chuối, lá khoai để học những chữ khó nhớ. Vì thế, từ nhiều đời nay người dân đất Việt đều xem ông là tấm gương về sự học, vượt khó nghèo để học. Vì sao con trai một người mà dân gian vẫn gọi là “đồ tể” nhưng lại có thể là học trò của một Thái học sinh, thậm chí một Trạng nguyên? Đó là bởi ngày ấy ngoài việc trò chọn thầy giỏi thì vẫn có chuyện thầy chọn trò giỏi, chứ không phải là vì gia đình nhà trò giàu. Tóm lại, thời đó bệnh thành tích chưa xuất hiện và cũng chưa có chuyện học phí leo thang như bây giờ. Vì thế con em nông dân hoàn toàn có thể theo thầy đèn sách mà trở thành tiến sĩ, trạng nguyên. Và có lẽ vì thế ngày nay mới có người hỏi rằng: Bao giờ cho đến ngày xưa?, là vậy!

ND

  • Từ khóa
109749

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu
Năm 2023 Bình Phước đứng thứ bao nhiêu xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, thành cả nước?