BP - Theo các tài liệu lịch sử và Kinh Talmud, người Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới - từ năm 64 sau Công nguyên, đã có quy định tất cả nam giới phải biết đọc, viết và tính toán. Sang thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết, tính toán. Từ điều này có thể khẳng định rằng, ngay từ thời xa xưa, người Do Thái đã thực hiện phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác trên trái đất tới mười mấy thế kỷ.
Minh họa: S.H
Như vậy, từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt, vì loại vốn này có thể sinh ra vốn và của cải và nói đúng hơn là các loại tài sản khác, nhưng lại không bị ai có thể cướp đoạt được. Và đây chính là nhân tố quan trọng giúp người Do Thái đạt được trí thông minh vượt bậc so với phần còn lại của thế giới. Và thực tế đã chứng minh rằng không một người Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu sự hiểu biết cho chính bản thân mình.
Ngạn ngữ Do Thái có câu rằng “Không anh thì chợ vẫn đông”. Với câu ngạn ngữ này, người Do Thái cho rằng, kẻ nào tự mãn, tự cao, tự đại sẽ khó có được đức tính khiêm tốn và đó là những con người ngu xuẩn. Có lẽ vì thế trong phần Sách thế kỷ của Kinh Talmud có viết rằng: Chúa trước hết sinh ra ngày và đêm tức quang minh và đen tối, sau đó mới tạo ra bầu trời và mặt đất, rồi tạo ra nước, đất và sinh vật, cuối cùng mới tạo ra con người đầu tiên là Adam. Như vậy là sâu bọ cũng ra đời sớm hơn người, vậy con người có gì ghê gớm mà đã lên mặt kiêu căng.
Chính vì thế, trong nội dung của Kinh Tamuhd rất chú ý đến việc dạy dỗ con người phải có ý thức khiêm tốn, tránh kiêu căng, tự cao tự đại. Và mẩu chuyện trong cuốn sách “Người Do Thái dạy con” dưới đây là một minh chứng: Chuyện kể rằng, xưa kia ở nước Đức có một thi sĩ người Do Thái tự cho mình là tài giỏi. Ông ta đã sáng tác ra nhiều bài thơ với tình cảm lai láng viển vông có vẻ hay lắm. Thế nhưng nhà thơ vẫn rầu rĩ vì rất ít người thích đọc thơ của mình. Thế rồi vào một ngày đẹp trời, ông nhà thơ đã tìm đến gặp ông già sửa đồng hồ là bạn của bố mình.
Khi ông nhà thơ vừa bước vào thì ông già sửa đồng hồ đã biết rõ tâm tư của thi sĩ, bèn dẫn anh vào thăm một gian phòng nhỏ. Trong đó trưng bày nhiều loại đồng hồ quý hiếm, đắt tiền, có cái trông giống như con chim bay, có cái giống như một con thú, có cái biết hót như chim, có cái biết dạo nhạc, thôi thì đủ loại. Rồi ông già lấy ra một cái hộp nhỏ, bên trong có một quả quýt vỏ bằng vàng. Chiếc đồng hồ này còn thể hiện được sự vận hành của các vì sao, nước triều trên biển cả và ngày, tháng, năm. Nhà thơ thích quá rất muốn mua và đã mở lời hỏi giá. Ông già mỉm cười trả lời, chỉ cần đổi lấy chiếc đồng hồ bình thường của thi sĩ là được. Nhà thơ sướng quá đồng ý ngay.
Nhà thơ quý chiếc đồng hồ mới lắm, khi ăn, khi ngủ, khi đi chơi đều mang theo bên mình. Nhưng chỉ một thời gian sau, ông đã chán nó và cuối cùng ông ta chạy đến tìm ông già sửa đồng hồ rồi xin đổi lại chiếc đồng hồ bình thường của mình. Ông già hỏi tại sao, nhà thơ nhăn nhó trả lời: Nó không biết chỉ giờ giấc, cháu dùng đồng hồ này chẳng biết được thời gian cụ thể ra sao. Có ai đó hỏi cháu về sự vận hành của tinh tú hoặc mực nước thủy triều lên xuống đâu. Xem ra đó là đồ vô dụng.
Ông già im lặng không trả lời. Ông lấy trong giá sách ra tập thơ của thi sĩ và nói: Cháu ơi! Việc làm của chúng ta quan trọng nhất là phải giúp ích cho xã hội. Nhà thơ nghe xong giật mình tỉnh ngộ. Từ đó, ông cố gắng thay đổi phong cách sáng tạo của mình, cố viết được những bài thơ thực sự có ích cho người đọc.
Lời bàn:
Từ nội dung của mẩu chuyện trên cho thấy, không phải ngẫu nhiên mà người Do Thái ngày xưa ghi chép và truyền lại để cho con cháu họ mua vui lúc trà dư, tửu hậu, mà là để cho hậu thế trên hành tinh này hiểu rõ giá trị của đức tính khiêm tốn, phải biết mình là ai, đứng ở đâu trong xã hội. Và điều quan trọng hơn nữa đối với mỗi người là mọi suy nghĩ, việc làm đều phải vì mục đích giúp ích cho đời, cho xã hội đẹp hơn, tốt hơn.
Trong cuốn Kinh Talmud có đoạn viết rằng: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Chính vì thế mà các ông bố, bà mẹ người Do Thái thường dạy con của họ: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt, nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Và ngày nay, lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ chính truyền thống văn hóa của dân tộc ấy. Việt Nam là một dân tộc giàu truyền thống văn hóa và lịch sử hào hùng, vậy đến khi nào chúng ta mới “sánh vai cùng với các cường quốc năm châu”? Câu hỏi này cũng chính là lời nhắc nhở các thế hệ hôm nay nghĩ gì về trách nhiệm của mình trước sự tụt hậu của đất nước. Đồng thời, câu trả lời đang chờ ở chính những người Việt Nam hôm nay.
N.D
                            
                    
                    
                        Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc                    
                
                    
                    
                        Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý                    
                
                    
                    
                        Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước                    
                
                    
                    
                        Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính                    
                
                    
                    
                        Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026