BP - Theo sách “Hoàng Lê nhất thống chí”, Hứa Tam Tỉnh là người làng Vọng Nguyệt (làng Ngọt), nay là xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Giang. Hứa Tam Tỉnh thuở nhỏ học rất giỏi nhưng gia cảnh nghèo túng, dung mạo thì xấu xí, thấp lùn lại đen đủi. Tài học của Tam Tỉnh nổi tiếng cả trấn Kinh Bắc thời ấy. Cùng thời với Hứa Tam Tỉnh, có Nguyễn Giản Thanh là người ở làng Me (tên chữ là Hương Mặc), xã Minh Đức, huyện Tiên Sơn, cùng tỉnh Bắc Giang. Tài học của Giản Thanh cũng nổi tiếng trong trấn nhưng trong bụng Giản Thanh rất kiêng nể Hứa Tam Tỉnh.
Minh họa: S.H
Trong kỳ thi Hội khoa Mậu Thìn đời vua Lê Uy Mục (1508), hai người cùng đi thi. Qua kỳ thi Hội rồi thi Đình, các bài của Hứa Tam Tỉnh đều xuất sắc hơn bài của Nguyễn Giản Thanh. Các quan chấm thi đều nhất trí là lấy Hứa Tam Tỉnh đỗ đầu, tức Trạng nguyên, còn Nguyễn Giản Thanh đỗ thứ hai tức Bảng nhãn và người đỗ thứ ba tức Thám hoa là Nguyễn Hữu Nghiêm. Sau đó, ba vị đỗ cao được vào triều để tiếp kiến Long nhan. Lúc đó, bà Kinh phi (mẹ vua) cũng có mặt, nhìn thấy Giản Thanh mặt mũi sáng sủa đẹp trai hơn cả thì liền chỉ Giản Thanh mà hỏi quan chủ khảo: Người này chắc là Trạng nguyên?
Quan chủ khảo không muốn phật ý mẹ vua nên lúng túng, đoạn chỉ cả vào Giản Thanh và Tam Tỉnh mà tâu rằng: Hai người này tài học ngang nhau, chúng thần chưa biết lấy ai đỗ trạng. Xin mẫu hậu và hoàng thượng phán xét.
Mặc dù nhà vua cũng đã biết là văn tài của Hứa Tam Tỉnh hơn Nguyễn Giản Thanh nhưng ngó thấy bà Kinh phi đang nhìn Nguyễn Giản Thanh với ánh mắt long lanh đắm đuối nên nhà vua muốn chiều lòng mẹ bằng cách ra thêm bài phú Phường thành xuân sắc (cảnh mùa xuân ở kinh đô), để xét tài cao thấp. Và Hứa Tam Tỉnh làm bài họa bằng chữ Hán. Còn Nguyễn Giản Thanh nghĩ, nếu làm bằng chữ Hán thì sẽ không thể cao xa thâm thúy bằng Tam Tỉnh, chi bằng làm bằng chữ Nôm, hình ảnh bóng bẩy, câu văn yểu điệu tất mẫu hậu sẽ hiểu được và thích thú. Tức thì Giản Thanh ứng khẩu đọc liền một mạch:
...Chợ hoa đầm ấm, phố ngọc tần vần
Trai bảnh bao đá cầu vén áo
Gái éo le rủ yếm khỏi quần
Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa rợp đường tử mạch
Chàng công tử ngựa xe giương tán, sáng dặm thanh vân...
Bà Kinh phi nghe đọc mà miệng cười phấn chấn, má ửng đỏ như gái dậy thì, mắt lấp lánh như ánh thu ba... Đàm đạo một hồi, vua lại thấy Nguyễn Giản Thanh là người phủ Từ Sơn, quê ngoại của mình nên đẹp lòng lắm, truyền lấy Giản Thanh đỗ Trạng nguyên, còn Hứa Tam Tỉnh lùi xuống hàng Bảng nhãn. Biết chuyện này, nho sĩ Kinh Bắc phẫn nộ lắm, làm vè chê Nguyễn Giản Thanh là “Mạo Trạng nguyên”, nghĩa là “Trạng nguyên mặt”, vì đẹp trai mà được đỗ trạng, đồng thời cũng có nghĩa là “Trạng giả mạo”, thực không xứng đáng. Còn Hứa Tam Tỉnh, tuy không được đỗ trạng nguyên nhưng người đời vẫn thường gọi ông là Trạng Ngọt (tức ông Trạng làng Ngọt, tên chữ là Vọng Nguyệt - một ngôi làng bên bờ sông Như Nguyệt). Mặc dù đậu hụt trạng nguyên nhưng dân gian thời ấy vẫn gọi Hứa Tam Tỉnh là “Trạng Ngọt”, nhân chuyện ấy người đương thời mới có câu vè rằng “Trạng Me đè Trạng Ngọt”.
Lời bàn:
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” và sách “Đại Nam thực lục” thì các kỳ thi Nho học ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1075, dưới triều vua Lý Nhân Tông và chấm dứt vào năm 1919, đời vua Khải Định. Trong 845 năm, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tổ chức 185 khoa thi và đã có 2.898 sĩ tử đỗ đại khoa (từ phó bảng trở lên), trong đó có 47 sĩ tử đỗ Trạng nguyên. Theo các tài liệu còn lưu truyền đến ngày nay, việc thi cử ngày xưa không chỉ mang lại niềm vui, vinh dự cho người có tên trong bảng vàng mà còn đem đến không ít nỗi buồn cho cả những người đậu, người rớt và người coi thi. Và giai thoại về câu vè “Trạng Me đè Trạng Ngọt” nêu trên là một minh chứng.
Theo các tài liệu lịch sử thì khoa cử của các triều đại phong kiến ngày xưa dùng đạo Nho để chọn những người có tài, có đức ra làm quan giúp vua trị nước. Theo đạo Nho, người quân tử trị dân bằng đức hơn là quyền uy hay luật pháp, vì nho giáo dạy người sĩ tử trước hết phải biết tu thân rồi mới nghĩ đến chuyện “Tề gia trị quốc”, chứ không phải dạy học trò tìm mọi thủ đoạn để thi đỗ, chóng ra làm quan để “vinh thân phì gia”. Và thực tế từ xưa đến nay cho thấy, những người học hành không đến nơi đến chốn, lại thiếu đức độ thì khi đi thi thường gian lận và khi ra làm quan thì đục khoét của dân. Tiếc rằng, bài học này không được hậu thế xem trọng. Vì thế, ngày nay không ít người ngồi nhầm ghế, bởi kiến thức cũng như năng lực của họ không tương xứng với bằng cấp. Nguyên nhân là do những tấm bằng cử nhân, thạc sĩ và thậm chí tiến sĩ tuy là bằng thật nhưng lại là kết quả của một quá trình học giả, thi giả.
N.D
                            
                    
                    
                        Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc                    
                
                    
                    
                        Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý                    
                
                    
                    
                        Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước                    
                
                    
                    
                        Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính                    
                
                    
                    
                        Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026