BP - Như đã nói ở kỳ trước, sau khi rời trường thi trở về nhà với niềm hy vọng mong manh và như là để tạ lỗi với vợ về bài thi làm chưa tốt của mình, Nguyễn Minh Triết liền vác cào, cùng ra đồng làm cỏ lúa với vợ. Những ngày sau, ông vẫn đi ra đồng làm như thế. Mặc dù ngoài mặt thì cười nói như không có chuyện gì, nhưng trong bụng, lúc nào ông cũng cảm thấy lo âu, phấp phỏng.
Đến khoảng nửa tháng sau, khi ấy vợ chồng ông đang làm cỏ lúa thì ở phía làng có người hớt hơ hớt hải chạy tới. Khi gần đến nơi, Nguyễn Minh Triết nhận ra đó là người chủ trọ ở kinh thành, ông gào lên thật to: Có đỗ không?
Người chủ nhà trọ chạy không kịp thở, nên chỉ dùng tay chỉ lên đầu mình làm hiệu. Hiểu ý nên Nguyễn Minh Triết vui sướng nhảy cẫng lên, rồi sau đó vừa cười vừa nói với vợ:
- Đấy bà xem. Tôi đã bảo đỗ là đỗ kia mà!
Và hôm ấy, ông chỉ ở nhà được nửa buổi để đãi khách và chuẩn bị, rồi lên kinh đô ngay cho kịp thi Đình. Và từ đấy số phận đã quay lại “mỉm cười” với Nguyễn Minh Triết vì ở cả hai kỳ thi Hội và thi Đình, ông đã gặp những điều thật may mắn. Đó là việc trong ban chấm thi, có một người thật uyên bác, lại công minh chính trực, đã hiểu hết ý nghĩa trong văn bài của ông mà tâu lên với chúa, lấy ông đỗ! Người đó tên là Nguyễn Thị Duệ - nữ tiến sĩ của triều Mạc và cũng là nữ tiến sĩ đầu tiên trong nền khoa bảng của nước ta.
Nguyễn Thị Duệ khi đi học và đi thi đã cải trang nam giới, rồi lấy tên là Nguyễn Văn Du (vì thời ấy không cho nữ đi thi) và Nguyễn Thị Duệ đã đỗ Đồng Tiến sĩ ở thời Mạc Mậu Hợp. Sau đó, bà làm Học quan dạy học cho các cung nữ. Khi quân Mạc thất trận ở Thăng Long và chạy lên vùng Phượng Nhãn (Bắc Giang), quân Lê - Trịnh tiếp tục truy đuổi. Mạc Mậu Hợp bị bắt rồi bị hành hình, nữ học quan cũng bị bắt đưa về kinh thành Thăng Long. Khi ấy, Tiết chế Trịnh Tùng trọng tài, giữ bà ở chức vụ cũ. Trải qua đời chúa Trịnh Tùng đến đời chúa Trịnh Tráng, có thời gian bà tiến sĩ đi tu, nhưng sau đó lại được triệu hồi, với sự ưu ái của chúa Trịnh là mỗi khi thi Hội hay thi Đình, đều mời bà vào đọc phúc khảo và hỏi ý kiến.
Trở lại với bài thi của Nguyễn Minh Triết, vì làm thiếu đề mục nên không được lấy đỗ. Nhưng vì bài làm hay, nên ban giám khảo đã để riêng ra. Đến khi trình xong các quyển “trúng cách”, chúa Trịnh Tráng hỏi: Những quyển định lưu xét kỳ này, có quyển nào hay không?
Quan chủ khảo thưa lên rằng: Bẩm, có một quyển làm 4 mục rất tốt, nhưng lại để sót 8 mục.
Nghe vậy, chúa Trịnh phán: Thơ một câu, phú một liễn. Một câu hay còn có thể lấy, huống hồ là 4 mục.
Sau đó, quyển thi của Nguyễn Minh Triết được trình lên, chúa đọc thấy tâm đắc, nhưng liền đó lại tỏ vẻ băn khoăn vì còn nhiều chỗ chưa hiểu. Chúa bèn đưa bài cho nữ học quan đọc. Đọc xong, ngay giữa triều đình, bà diễn giải điển tích cùng những ý tứ sâu xa trong văn bài của Nguyễn Minh Triết. Chúa và các vị đại thần đều cảm phục - cả người diễn giải lẫn bài làm, sau đó đã lấy Nguyễn Minh Triết đỗ đầu. Cùng lúc ấy, Chúa Trịnh cũng đặt bút cải tên cho Nguyễn Minh Triết thành Nguyễn Thọ Xuân. Đến khi thi Đình, trong số 6 người lấy đỗ tiến sĩ của kỳ thi Hội, Nguyễn Minh Triết cũng lại xếp thứ nhất nhưng ở bậc “đệ tam danh” của “Tiến sĩ cập đệ” - tức là đỗ Thám hoa.
Lời bàn:
Từ nội dung của giai thoại trên cho thấy, thi cử thời nào cũng vậy, đề thi thì có một nhưng cách làm, phương pháp làm không phải ai cũng giống ai. Và chỉ có những người tự tin vào chính mình, vào kiến thức và trí tuệ của mình thì người đó sẽ thành công. Và trong giai thoại trên cũng cần phải nói đến sự sáng suốt của chúa Trịnh và sự trung thực của quan chủ khảo trường thi năm đó. Nếu chúa Trịnh và quan chủ khảo là người vô tâm và cứ chiếu theo phép mà làm thì chắc chắn Nguyễn Minh Triết thời đó đã trở thành người hỏng thi. Thế mới biết trong cái rủi có cái may là vậy.
Đã sinh ra và được sống trên cõi đời này, chẳng có ai mà lại không mong muốn, ước ao những điều may mắn, hạnh phúc đến với mình, với gia đình và những người thân hoặc bè bạn. Ngược lại, chẳng ai lại mong muốn những điều rủi ro, mất mát hay đau khổ đến với mình hoặc những người thân. Thế nhưng quy luật cuộc đời không phải cứ mong, cứ ước hay cứ muốn là được, là có mà quan trọng phải biết làm gì để có cái mình mong, mình ước một cách chắc chắn, lâu dài và bền vững. Bởi quy luật của cuộc đời không phải cái có chưa hẳn là cái được vì trong phúc đã chứa sẵn mầm họa và trong họa luôn chứa sẵn mầm phúc. Phúc càng lớn, họa càng lớn và ngược lại họa càng lớn, phúc càng lớn. Trong cái được ắt sẽ có cái mất và trong cái mất có cái được. Đó là tính hai mặt của phúc - họa, được - mất, may và rủi.
N.D

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026