BP - Theo sách “Đại Việt thông sử”, Lê Văn Linh sinh năm Đinh Tỵ (1377) tại làng Hải Lịch, huyện Lôi Dương (nay là xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), mất vào tháng chạp năm Mậu Thìn (1448), hưởng thọ 71 tuổi. Lê Văn Linh là khai quốc công thần và là nguyên lão đại thần của ba triều nhà hậu Lê (Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông). Ông là người có bản tính thâm trầm, đã giàu mưu lược lại rất am hiểu chính sự, ý kiến bàn bạc ở triều thường rất sáng suốt. Thời Hồ (1400-1407), Lê Văn Linh đã nổi tiếng là người hay chữ của huyện Lôi Dương, tuy nhiên không thấy sử chép gì về việc thi cử của ông. Khi Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, Lê Văn Linh là một trong những người đầu tiên nhiệt liệt hưởng ứng. Và ông là 1 trong số 18 người tham dự Hội thề Lũng Nhai cùng Lê Lợi.
Là người có tiếng hay chữ, Lê Văn Linh thường được Bộ chỉ huy Lam Sơn và Bình Định vương Lê Lợi sử dụng như một văn thần. Dẫu vậy, những ý kiến xuất sắc của ông đối với hoạt động của lực lượng vũ trang luôn luôn được đánh giá rất cao. Sử sách xưa nay phần nhiều vẫn xếp ông vào hàng những nhà quân sự có tài của đất nước. Tương truyền vào thời ông còn trẻ, đất làng Hải Lịch vẫn thường bị cọp hoành hành, dân làng rất lấy làm khổ sở. Sử cũ chép rằng: Ông vốn là người có khí tiết cao. Lúc ấy, dân trong làng thường khổ vì nạn cọp. Ông liền nhân đó viết bức thư trách cọp. Từ đó, cọp bỏ đi. Vì lẽ ấy, người ta ví ông như Hàn Thuyên là người đã làm thơ đuổi cá sấu đi nơi khác.

Về những cống hiến của Lê Văn Linh trong thời kỳ tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, sử cũ chỉ chép một cách rất vắn tắt: Khi Lê Lợi còn đang trong thời kỳ bí mật chuẩn bị ở Lam Sơn, ông đã hăng hái theo về. Đến năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi dấy nghĩa binh, ông thường cùng Nguyễn Trãi luôn ở bên cạnh Lê Lợi để bàn mưu bày kế thần diệu trong màn trướng.
Khi Lê Lợi vây thành Đông Quan, ông bàn mưu kín mà lấy được thành, khiến cho người Minh cuối cùng phải xin hàng, Vương Thông phải rút về, nước nhà nhờ đó mà thái bình yên tĩnh. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, ông được xếp vào hàng khai quốc công thần, tước Hương Thượng hầu. Đó là tước vị thuộc hàng cao nhất mà vua Lê Thái Tổ đã ban cho những người từng đồng cam cộng khổ và có nhiều công lao trong sự nghiệp đánh đuổi quân Minh. Năm 1429, Lê Văn Linh được phong làm Nhập nội Thiếu phó. Năm 1435, Lê Văn Linh được lệnh cùng Lê Bôi đem quân đi đánh Cầm Quý ở Châu Ngọc Ma (phía tây của đất Nghệ An ngày nay).Sử cũ chép rằng:Châu Ngọc Ma ở phía tây Nghệ An, phía đông của Ai Lao. Ở đó, Cầm Quý có hơn 1 vạn quân. Khi Lê Lợi khởi nghĩa, Cầm Quý đã từng đem quân tới giúp và từng được trao hàm Thái úy. Ít lâu sau, Cầm Quý tỏ ý ngờ vực, hối hận mà rút quân về. Đến khi dẹp xong giặc Ngô, Cầm Quý rất lấy làm hổ thẹn và lo sợ, nhưng hắn vẫn cậy có đất hiểm, lại ở chốn xa xôi nên không chịu thần phục. Cầm Quý là tên tham lam và tàn bạo, không cho dân được trồng trọt tranh với mình. Hắn cho xây cung thất lớn, lấy đồng làm cột, vợ cả vợ lẽ kể đến hàng trăm. Hắn bắt dân đóng góp nặng, nói láo là để nạp cống, nhưng thực là để vơ vét cho riêng mình. Lê Lợi định giết hắn, nhưng vì lúc bấy giờ đang có nhiều việc, chưa rảnh mà hỏi đến. Sau chiến thắng quân Minh, Lê Lợi sai đi đánh và bắt được Cầm Quý đem về kinh sư.
Trong trận đánh vào Châu Ngọc Ma nói trên, với cương vị là Tham đốc, tướng Lê Văn Linh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Người đương thời cho ông là bậc đa tài, vào triều là tướng văn, ra ngoài là tướng võ, không việc gì không đảm đương được. Nhưng cũng đúng năm 1435, vì có lời can vua không nên xử quá nặng đối với quan Đại Tư đồ Lê Sát, ông bị giáng xuống hàm Bộc xạ. Phải khá lâu sau đó, Lê Văn Linh mới được phục chức, trải thăng dần lên đến hàm Thái phó.
Lời bàn:
Theo sử cũ, Lê Văn Linh là một trong những công thần khai quốc của nhà Lê sơ. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn chép về ông như sau: Văn Linh là công thần khai quốc, là vị nguyên lão của ba triều, tính thâm trầm, có trí lược, rất am hiểu các mặt chính sự, lúc bàn bạc ở triều đình có nhiều điều rất sáng suốt. Khi Lê Sát bị giết, ông nói thẳng không a dua, đành chịu khiển trách, được công luận cho là phải. Song ham mê tiền của, cho người làm quan để nhận hối lộ riêng.
Thế mới hay rằng, việc đưa và nhận hối lộ không phải đến thời nay mới có mà đã có từ thời xa xưa. Và có lẽ chính vì thế cho nên ngay từ thời xưa đã có câu: “tham thì thâm”. Tiếc rằng, từ ngày xưa cho đến hậu thế thời này không phải ai cũng hiểu biết rõ về ý nghĩa của câu này. Bởi thế ngày nay có không ít người tìm mọi cách để mang của thiên hạ về làm của mình và cuối cùng là con cháu sẵn có tiền nên cứ ăn chơi rồi sớm trở thành những kẻ nghiện ngập, tội phạm. Thế mới biết, của bất nghĩa sẽ tạo ra kẻ bất nhân là vậy. Và nếu ai chưa tin điều này, xin hãy tĩnh tâm nhìn khắp trong thiên hạ thì ắt sẽ rõ.
N.N

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026