Năm Giáp Dần (1794), Trần Quang Diệu được lệnh đem binh vào đánh Diên Khánh, Lê Văn Hưng đánh Phú Yên. Nghe danh Trần Quang Diệu, trấn thủ Diên Khánh là Nguyễn Văn Thành không dám ra ngênh chiến, đóng chặt cửa thành cố thủ và cho người cấp báo với Gia Định. Thành Diên Khánh được xây dựng kiên cố, Trần Quang Diệu công phá không được bèn bao vây, đợi trong thành hết lương. Gia Định được tin, Nguyễn Phúc Ánh kéo đại binh ra tiếp cứu. Trần Quang Diệu lui quân.
Tháng Giêng năm Ất Mão (1795), Trần Quang Diệu lại đem thủy, bộ binh vào đánh Diên Khánh. Lúc bấy giờ, Võ Tánh đã thay thế Nguyễn Văn Thành nên đem quân ra giao chiến vài bận, liệu đánh không lại bèn đóng chặt cửa thành cố thủ, đợi Gia Định cứu viện. Tháng 2, Nguyễn Phúc Ánh đem thủy binh ra cứu.
Quân Nguyễn Phúc Ánh bị Trần Quang Diệu chận tại Trường Cá (Phương Sài) nên phải đóng ngoài biển Nha Trang và các nơi hiểm yếu trên đất liền. Quân không tiến lên Diên Khánh được. Thành Diên Khánh bị Trần Quang Diệu vây chặt. Đoàn quân nào kéo ra cũng bị Tây Sơn tiêu diệt hoặc đánh lui. Quân hai mặt không thể liên lạc được với nhau, ưu thế nằm hẳn trong tay Trần Quang Diệu.
Lúc đó, Trần Quang Diệu thất kinh trước tin Phú Xuân có biến: Bùi Đắc Tuyên lộng quyền, Võ Văn Dũng đem binh về tiêu diệt, nội tình Phú Xuân rối ren bèn nói cùng các tướng: Chúa thượng là người thiếu cương quyết, để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong không yên thì đánh ngoài thế nào được!
Nói rồi Trần Quang Diệu liền ra lệnh rút quân. Đi đường núi sẽ lâu, lại không tiện, Trần Quang Diệu phải mở cửa đường biển, theo gió nam mà đi cho mau, Nguyễn Phúc Ánh không dám cản đường. Đến Phú Xuân, Trần Quang Diệu đóng tại An Cựu, định đánh nhau với Võ Văn Dũng, song nhờ có Võ Đình Tú hòa giải nên cùng Dũng vào bệ kiến Cảnh Thịnh. Trần Quang Diệu được phong chức Thái phó, là một trong Tứ trụ đại thần (Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Danh, Nguyễn Văn Huấn), nhưng rồi có người gièm cùng Cảnh Thịnh rằng Diệu nắm quyền quan trọng quá, e có ý khác. Cảnh Thịnh bèn thu hết binh quyền, chỉ để Diệu giữ hư vị trong triều mà thôi. Từ đó, Trần Quang Diệu sinh nghi kỵ thường cáo bệnh không đi chầu, ngày đêm cắt kẻ thủ hạ gần 200 người mang vũ khí bên mình để bảo vệ.
Tháng 4 năm Kỷ Tỵ (1799), Nguyễn Phúc Ánh lại kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Tướng Lê Văn Thanh cố thủ chờ cứu viện. Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng từ Phú Xuân kéo binh vào đến Quảng Nghĩa thì bị Tống Viết Phước chận đánh. Võ Văn Dũng thua to, nhờ có Trần Quang Diệu cứu ứng. Thành Quy Nhơn chờ viện binh không được nên Lê Văn Thanh mở cửa thành đầu hàng. Nguyễn Phúc Ánh đem chém tất cả hàng tướng và đổi tên thành Quy Nhơn ra thành Bình Định. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu được giao cho đồng trấn thủ. Còn Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng lui về giữ Quảng Nam.
Vì nghe theo lời gièm pha, vua Cảnh Thịnh gửi thư vào cho Võ Văn Dũng bảo giết Trần Quang Diệu. Dũng đưa thư cho Diệu xem, xem xong Diệu nổi giận: Chúng ta đã đem hết lòng hết sức ra phò vua. Vua đã không nghĩ đến công lao thì chớ, còn đem lời xiểm nịnh, hết phen này đến phen khác sẵn tay giết chết chúng ta? Tình thế không thể kéo dài mãi, tôn huynh ở lại đây ngừa giặc, tôi về kinh.
Lời bàn:
Nguyễn Phúc Ánh sau khi lên ngôi (1802) lấy hiệu Gia Long và đã tỏ ý chiêu hàng Trần Quang Diệu. Nhưng ông khảng khái đáp lại: Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Quy Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu. Biết không thể khuất phục được ông, vua Gia Long xử cả gia đình ông một cách dã man. Ông bị xử lột da, vợ và con gái ông thì bị voi giày. Cực hình lột da là một cách hành hạ tội nhân vô cùng đau đớn, khổ sở trong cái chết đến từ từ. Nhưng ông không một tiếng kêu rên, một lời than thở. Sau khi ông mất, con cháu ông ở làng An Hải phải cải từ họ Trần sang họ Nguyễn, đến khi mất mới ghi trên bia mộ là họ Trần.
Thế mới biết rằng sự trả thù của triều đại phong kiến thời Gia Long quá thâm độc và tàn ác. Và cũng chính từ hành vi hèn ấy của triều đình phong kiến đương thời mà hậu thế càng thấy rõ hơn ở Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân có đầy đủ những đức tính nhân - hiếu - trí - dũng của bậc đại anh hùng! Anh hùng vì can đảm phi thường, can đảm phi thường vì “dám sống để thân xác bị hành hạ” và chỉ riêng điều này đã ngàn lần khó hơn “dám chết”!
K.C

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026