Thứ 6, 26/04/2024 18:05:48 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Pháp luật 16:36, 12/06/2018 GMT+7

Điều kiện để khởi kiện vụ án dân sự

Thứ 3, 12/06/2018 | 16:36:00 1,806 lượt xem

BPO - Được khởi kiện vụ án dân sự là một trong những quyền cơ bản của công dân và được Hiến pháp bảo hộ. Trong Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25-11-2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-6-2016, đã cụ thể hóa quyền nay. Mặc dù vậy, thời gian gần đây vẫn có nhiều người gọi điện, gửi thư điện tử về tòa soạn để hỏi những vấn đề liên quan đến quy định của pháp luật về quyền và điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Và trong phạm vi bài viết này, xin giới thiệu cùng bạn đọc về quyền khởi kiện và điều khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Quyền khởi kiện vụ án dân sự

Vụ án dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện nay là các tranh chấp nảy sinh từ các quan hệ hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại, đất đai, nhà ở và các quan hệ dân sinh trong đời sống xã hội. Việc các chủ thể của những quan hệ đó có tranh chấp và được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước giải quyết được gọi là các vụ án dân sự. Các tranh chấp dân sự được coi là vụ án dân sự khi có chủ thể trong quan hệ tranh chấp đó đưa vấn đề tranh chấp ra trước tòa án để được giải quyết đó gọi là “khởi kiện”.

Và khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì các chủ thể bằng cách thông qua con đường khởi kiện yêu cầu tòa án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền dân sự phải chấm dứt hành vi trái pháp luật hoặc phải bồi thường thiệt hại hoặc phải chịu chế tài phạt vi phạm… Bên cạnh đó, pháp luật còn cho phép trong một số trường hợp thì khi cho rằng quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc lợi ích công cộng hay lợi ích của nhà nước bị xâm phạm thì một số đối tượng nhất định cũng có quyền khởi quyền nhằm đảm bảo công lý, công bằng trong xã hội.

Cụ thể, về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước, tại Điều 187 của Bộ luật Tố tụng Dân sự có quy định cụ thể như sau: Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật. Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Mặc dù ghi nhận quyền khởi kiện trên, tuy nhiên pháp luật cũng quy định chủ thể tiến hành khởi kiện phải thỏa mãn các điều kiện khởi kiện mới được tòa án tiến hành thụ lý giải quyết đơn kiện nhằm đảm bảo trật tự trong công tác pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vụ việc được xét xử, giải quyết khách quan, công bằng.

Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự

Thứ nhất: Để khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi kiện và có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, đất đai, nhà ở. Bởi quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự chỉ có được khi chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung: Quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, đất đai, nhà ở. Chủ thể không có quyền, lợi ích dân sự, không có quyền khởi kiện trừ một số trường hợp ngoại lệ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, mặc dù người khởi kiện có quyền, lợi ích dân sự nhưng quyền, lợi ích đó không hoặc chưa bị xâm phạm thì cũng chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Về nguyên tắc, chỉ có cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm mới có quyền khởi kiện để yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi của mình. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực phụ trách, trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật quy định quyền khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện trong trường hợp cần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Thứ hai: Vụ án được khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Việc xác định thẩm quyền là một điều kiện cần thiết để đảm bảo cho hoạt động bình thường và hợp lý của bộ máy nhà nước. Đồng thời, việc phân định thẩm quyền giữa các tòa án cũng góp phần cho các tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ và người dân dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện. Thẩm quyền của tòa án được xác định một cách chính xác sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ của tòa án, góp phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Để vụ án dân sự được thụ lý, đơn khởi kiện phải gửi đến đúng tòa án có thẩm quyền giải quyết. Cụ thể: Vụ án mà chủ thể khởi kiện thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của tòa án quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với những việc pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết trước thì chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện vụ án khi các cơ quan hữu quan đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan đó.

Thứ ba, vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà các chủ thể có quyền khởi kiện được quyền yêu cầu tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động để bảo vệ quyền, lợi ích bị xâm phạm. Hết thời hạn đó thì chủ thể khởi kiện mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định tại Điều 185 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, riêng đối với yêu cầu hoàn trả lại tài sản thuộc sở hữu nhà nước, yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính chất của mỗi loại tranh chấp mà pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện. Và theo quy định tại Điều 186, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ, pháp luật quy định không tính vào thời hiệu khởi kiện khoảng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng; trở ngại khách quan; người có quyền khởi kiện chưa thành niên, bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà chưa có người đại diện; người đại diện của họ bị chết mà chưa có người thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện.

 Thứ tư, sự việc chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nếu sự việc đã được tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền của giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không được khởi kiện lại đối với vụ án đó nữa, trừ những trường hợp quy định tại Điểm c, Khoản 3, Điều 192; điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều kiện này nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định, sự ổn định của các quan hệ xã hội, một việc đã được giải quyết thì không giải quyết lại nữa để tránh tình trạng chồng chéo cũng một sự việc mà nhiều cơ quan giải quyết và tránh việc cố tình kéo dài việc khiếu kiện của đương sự.

T. Hiếu (Sở Tư pháp)

  • Từ khóa
30882

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu