Thứ 5, 09/05/2024 07:35:00 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Pháp luật về đất đai 08:05, 18/11/2014 GMT+7

Xác định tính chất, mức độ của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai

Thứ 3, 18/11/2014 | 08:05:00 485 lượt xem
BPO - Theo quy định tại Nghị định số 102/2014/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành, việc xác định tính chất, mức độ của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được thực hiện như sau:

Tính chất, mức độ của hành vi vi phạm hành chính quy định tại các Điều 6, 7, 8, 15, Khoản 1 Điều 16 và Điều 17 của nghị định này được xác định theo quy mô diện tích đất bị vi phạm. Tính chất, mức độ của hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 26 của Nghị định này được xác định theo số lượng hộ gia đình bị ảnh hưởng. Tính chất, mức độ của hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 9 và Điều 24 của nghị định này được xác định theo nguyên tắc quy đổi giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị vi phạm thành tiền theo giá đất trong bảng giá do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có đất ban hành tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính và chia thành 4 mức sau đây:

Mức 1: Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị vi phạm quy thành tiền dưới 60 triệu đồng đối với đất nông nghiệp, dưới 300 triệu đồng đối với đất phi nông nghiệp; Mức 2: Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị vi phạm quy thành tiền từ 60 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng đối với đất nông nghiệp, từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng đối với đất phi nông nghiệp; Mức 3: Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị vi phạm quy thành tiền từ 200 triệu  đồng đến dưới 1 tỷ đồng đối với đất nông nghiệp, từ 1 tỷ đồng đến dưới 3 tỷ đồng đối với đất phi nông nghiệp; Mức 4: Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị vi phạm quy thành tiền từ 1 tỷ đồng trở lên đối với đất nông nghiệp, từ 3 tỷ đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp.

Diện tích đất vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều này và chi phí để xác định diện tích đất vi phạm được quy định như sau: Trường hợp vi phạm toàn bộ diện tích thửa đất thì xác định theo diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 11 của Luật Đất đai; Trường hợp vi phạm một phần diện tích thửa đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất hoặc thửa đất vi phạm không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định thì người thi hành công vụ lập biên bản vi phạm hành chính, trong đó ghi rõ diện tích đất vi phạm thực tế. Trường hợp người có hành vi vi phạm không nhất trí với diện tích đất vi phạm đã xác định thì người thi hành công vụ báo cáo người có thẩm quyền xử phạt trưng cầu tổ chức có chức năng đo đạc tiến hành đo đạc xác định diện tích đất vi phạm; Chi phí đo đạc xác định diện tích đất vi phạm đối với trường hợp trưng cầu tổ chức có chức năng đo đạc quy định tại Điểm b Khoản này được tạm ứng từ ngân sách nhà nước. Người có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai chịu trách nhiệm chi trả chi phí đo đạc, xác định diện tích đất vi phạm.

Đối với trường hợp không xác định được loại đất do không có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì căn cứ quy định tại Điều 3 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (sau đây gọi là Nghị định số 43/2014/NĐ-CP) để xác định loại đất và áp dụng giá đất tương ứng trong bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành để xác định và quy đổi giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất vi phạm.

KN 

  • Từ khóa
110731

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu