Thứ 5, 09/05/2024 03:56:18 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Văn hóa 09:28, 31/01/2017 GMT+7

Những danh nhân tuổi Dậu

Thứ 3, 31/01/2017 | 09:28:00 274 lượt xem
BP - Trong kho tàng lịch sử Việt Nam, danh nhân tuổi Dậu không nhiều nhưng cũng đã có những người tài hoa, xuất chúng. Đó là nhà thơ, nhà văn hóa, nhà sử học... đã để lại cho đời những tác phẩm, công trình còn mãi với thời gian. Xuân Đinh Dậu - 2017 xin được giới thiệu đến bạn đọc những danh nhân tiêu biểu.

Đoàn Thị Điểm (1705-1746), sinh năm Ất Dậu, quê Hải Dương, là một nữ sĩ thời Lê mạt. Bà là một người xinh đẹp, tài hoa, ham học hỏi, lại thuộc dòng dõi quý tộc và nổi tiếng văn thơ trong vùng, được đón vào triều làm Giáo thụ, dạy dỗ cung tần. Năm 1739, đất nước loạn lạc, bà trở về quê kết hôn với tiến sĩ Nguyễn Kiều rồi cùng chồng dạy học và hoạt động văn hóa nghệ thuật. Bà để lại nhiều bài thơ tình cảm, da diết, u hoài và tập “Truyền kỳ tân phả” đầy ấn tượng. Bản dịch song thất lục bát tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của bà còn được đánh giá là công trình dịch thuật từ thơ chữ Hán ra thơ Nôm hoàn hảo nhất trong nền thi ca nước ta thời xưa.

Nguyễn Gia Thiều (1741-1789), sinh năm Tân Dậu, quê Bắc Ninh, là nhà thơ, nhà văn hóa, danh thần thời Lê mạt. Ông là người linh hoạt, bản lĩnh, văn võ song toàn, có họ hàng thân thích với nhà Trịnh (là cháu ngoại chúa Trịnh Cương), rất được triều đình trọng dụng. 18 tuổi ông đã làm Hiệu úy, 30 tuổi thăng tới Tổng binh, thống quản toàn bộ quân đội, giúp việc dẹp loạn, an dân. Ông am hiểu và nổi tiếng cả về văn, triết, sử lẫn âm nhạc, hội họa, kiến trúc. Về nhạc, ông đã soạn các bản “Sơn trung âm”, “Sở từ” điệu trầm hùng mà réo rắt. Về họa, ông vẽ bức tranh hoành tráng “Tống Sơn đồ”. Về kiến trúc, ông được chúa Trịnh tin giao việc trang hoàng phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích. Về thơ ca, ông là tác giả của nhiều bài nổi tiếng, được truyền tụng nhiều nhất là bản Cung oán ngâm khúc và 3 tập thơ: Tân Trai thi tập, Tiền hậu thi tập, Tây hồ thi tập.

Nguyễn Du (1765-1820), sinh năm Ất Dậu, quê Hà Tĩnh, là nhà thơ, danh sĩ thời Nguyễn sơ. Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng với nghị lực, sự mẫn cảm và trí thông minh nên đã sớm phò giúp nhà Nguyễn, giữ nhiều cương vị quan trọng, làm quan tới Hữu Tham tri bộ Lễ và từng đứng đầu đoàn đi sứ Trung Quốc năm 1813. Nguyễn Du là tác giả của nhiều bài thơ đa chiều mà nhuần nhị, dạt dào tình cảm trong các tác phẩm chính: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục... Đặc biệt “Truyện Kiều” với thể thơ lục bát, ngôn ngữ tài hoa, tinh tế và thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã đưa ông trở thành thi sĩ vĩ đại trong các nhà thơ Việt Nam. Ông là một trong những danh nhân văn hóa thế giới.

Trịnh Hoài Đức (1765-1825), sinh năm Ất Dậu, quê Đồng Nai, là nhà thơ, nhà sử học, danh thần thời Nguyễn sơ. Ông là người văn võ song toàn, phong thái mạnh mẽ; năm 1788 thi đỗ rồi ra làm quan, được triều đình trọng dụng, phong tới Thượng thư bộ Lễ kiêm bộ Hình, Phó tổng tài Quốc sử quán. Ông là nhân vật chủ chốt của Hội thơ Bình Dương nổi tiếng ở miền Nam với nhiều thi phẩm bình dị, dân dã, phóng khoáng, được nhiều người ngưỡng mộ, truyền tụng. Ông còn để lại các công trình địa lý, lịch sử, văn thơ giá trị như: Gia Định thành thông chí, Cấn Trai thi tập, Bắc sứ thi tập.

Họa sĩ Bùi Xuân Phái - Ảnh Tư liệu

Bùi Xuân Phái (1921-1988), sinh năm Tân Dậu, quê Hà Tây, là họa sĩ sơn dầu. Ông là người xuất thân từ làng tranh Kim Hoàng, học ở Hà Nội, tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1945, chuyên vẽ tranh sơn dầu chủ đề phố phường. Là người sáng tạo, tranh vẽ của ông đều có nét dị biệt, mang đậm truyền thống nhưng rất hiện đại. Các bức: Cánh võng, Văn Miếu, Ô Quan Chưởng, Phố cổ Hội An... đã được giới am tường nghệ thuật đánh giá cao. Đề tài ông vẽ đã trở thành một trường phái hội họa đặc trưng của Việt Nam với tên “Phố Phái”.

Lưu Hữu Phước (bìa trái) và đồng đội tại chiến trường Nam bộ - Ảnh tư liệu Họa sĩ Bùi Xuân Phái - Ảnh Tư liệu

Lưu Hữu Phước (1921-1989), sinh năm Tân Dậu, quê Cần Thơ, là nhạc sĩ, viện sĩ. Thuở nhỏ ông học ở Cần Thơ, Sài Gòn, năm 1940 ra Hà Nội học tại Đại học Y dược. Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông vào Sài Gòn nhiệt tình tham gia hoạt động văn hóa - xã hội, sáng tác nhiều bài hát ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam, cổ vũ lòng yêu nước trong thanh niên. Sau năm 1945, ông làm Tổng thư ký Ủy ban kháng chiến Nam bộ rồi lại ra Hà Nội làm Giám đốc Trường văn hóa thiếu nhi, Phó trưởng Đoàn văn công Trung ương. Thời kỳ 1959-1964, ông giữ chức Vụ trưởng Vụ Âm nhạc, Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Năm 1965, ông vào chiến trường miền Nam, viết ca khúc “Giải phóng miền Nam” nổi tiếng, giữ chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin trong Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969). Sau năm 1975, ông làm Viện trưởng Viện Âm nhạc và năm 1986 được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức phong Viện sĩ Thông tấn âm nhạc. Ông là nhạc sĩ hàng đầu của phong trào nhạc cách mạng hùng tráng, với những sáng tác có giá trị đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thanh Hà (st)

  • Từ khóa
92646

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu