Thứ 5, 20/11/2025 08:01:36 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Xã hội 08:07, 28/06/2019 GMT+7

Suy ngẫm về cụm từ “trợ cấp thất nghiệp”

Thứ 6, 28/06/2019 | 08:07:00 374 lượt xem
BP - Ngày 16-11-2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua toàn văn Luật Việc làm và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2015. Với luật này, lần đầu tiên trong văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta xuất hiện cụm từ “trợ cấp thất nghiệp”. Tuy nhiên, trong luật này không có khái niệm “trợ cấp thất nghiệp”, mà chỉ có khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp. Cụ thể, tại Khoản 4, Điều 3 nêu rõ: Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Theo đó, tại Điều 43 về đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp có quy định người lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc như sau: Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Trong trường hợp người lao động giao kết và đang thực hiện nhiều hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1, điều này thì người lao động và người sử dụng lao động của hợp đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Người lao động theo quy định tại khoản 1 điều này đang hưởng lương hưu, giúp việc gia đình thì không phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng làm việc hoặc hợp đồng lao động...

Công nhân Khu công nghiệp Đồng Xoài II, thành phố Đồng Xoài tan ca (ảnh minh họa) - K.BCông nhân Khu công nghiệp Đồng Xoài II, thành phố Đồng Xoài tan ca (ảnh minh họa) - K.B

Và tại Điều 46 về hưởng trợ cấp thất nghiệp quy định như sau: Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày trung tâm dịch vụ việc làm tiếp nhận đủ hồ sơ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp; trường hợp không đủ điều kiện để hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp thì phải trả lời bằng văn bản cho người lao động. Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện việc chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Như vậy, với quy định nêu trên chưa thể giải quyết được câu hỏi trợ cấp thất nghiệp là gì? Xét về ngữ nghĩa thì cụm từ “trợ cấp thất nghiệp” được hình thành bởi hai thành tố là “trợ cấp” và “thất nghiệp”. Hai thành tố này có liên quan chặt chẽ với nhau và “thất nghiệp” là nguyên nhân dẫn đến “trợ cấp”, “trợ cấp” là hệ quả của “thất nghiệp”. Theo Từ điển tiếng Việt của nhóm tác giả: Vĩnh Lộc, Bảo Đoan, Ngọc Hạnh, Quỳnh Tâm do Nhà xuất bản Thanh Niên phát hành năm 2000, thì trợ cấp là giúp đỡ, cấp dưỡng, ví dụ: Tiền trợ cấp nghỉ việc (trang 1.052). Còn theo Học viện Đào tạo kế toán Đức Minh thì, trợ cấp là khoản tiền người lao động được cấp khi rơi vào tình trạng không hoặc tạm thời ngừng lao động, trên cơ sở số tiền mà người lao động đã thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm trong thời gian lao động.

Đối với thành tố “thất nghiệp”, cũng theo từ điển nêu trên, thất nghiệp là không có việc làm, ví dụ: Dân thất nghiệp, nạn thất nghiệp (trang 976). Còn theo Từ điển bách khoa mở - Wikipedia, thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm. Ở nước ta, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Vì vậy, đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra khái niệm về thất nghiệp cũng như các vấn đề liên quan đến thất nghiệp. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu về xã hội học đều có chung nhận định rằng: Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang không có việc làm, đang đi tìm việc làm.

Từ những phân tích đã nêu, ở đây vấn đề đặt ra là sử dụng cụm từ “trợ cấp thất nghiệp” trong một văn bản quy phạm pháp luật, mà cụ thể là trong Luật Việc làm thì có phù hợp hay không? Và theo suy nghĩ của cá nhân người viết sử dụng cụm từ “trợ cấp thất nghiệp” là không phù hợp với bản chất của sự việc. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật hiện hành thì hằng tháng, người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp (có người thuộc diện bắt buộc, có người thuộc diện tự nguyện) cho cơ quan bảo hiểm xã hội. Việc làm này được xem là người lao động bỏ ra một khoản thu nhập của mình để mua sự an tâm về việc làm, hay chuyển điều rủi ro về công việc của họ cho cơ quan bảo hiểm xã hội. Và chỉ khi nào người lao động không tìm được việc làm, bị thất nghiệp thì khi đó sự kiện bảo hiểm mới xảy ra. Lúc này, cơ quan bảo hiểm xã hội phải thực hiện việc chi trả tiền từ quỹ thất nghiệp cho người lao động. Vì vậy, khoản tiền này không thể gọi là “trợ cấp” hay “giúp đỡ” và càng không thể là “cấp dưỡng” hay “hỗ trợ”. Mà đây là khoản tiền mà Quỹ bảo hiểm thất nghiệp phải bồi thường hoặc chi trả cho người lao động khi họ bị thất nghiệp.

Hơn nữa, xét về quan hệ pháp lý thì theo quy định pháp luật hiện hành, cơ quan bảo hiểm xã hội phải tiến hành hợp đồng với người sử dụng lao động để thực hiện việc bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Vì vậy, việc bồi thường tiền bảo hiểm cho người lao động là tính tất yếu của việc ký kết hợp đồng bảo hiểm thất nghiệp. Do đó, Luật Việc làm sử dụng trợ cấp thất nghiệp chứ không phải là bồi thường bảo hiểm thất nghiệp hay là tiền chi trả bảo hiểm thất nghiệp là không phù hợp, chưa đúng với bản chất vấn đề. Xét về góc độ xã hội, việc dùng từ “trợ cấp thất nghiệp” làm cho vị thế của người lao động không được tôn trọng. Vì vậy, rất mong cơ quan có thẩm quyền sớm chỉnh sửa cụm từ “trợ cấp thất nghiệp” cho đúng với bản chất của vấn đề, sự việc. 

D.V

  • Từ khóa
62433

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu
Năm 2023 Bình Phước đứng thứ bao nhiêu xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, thành cả nước?