Một trong những điểm mới nổi bật và được xã hội quan tâm trong Bộ luật Dân sự 2015 là “quyền có họ, tên”. Trong khi đó, ở Bộ luật Dân sự năm 2005 lại là “quyền đối với họ, tên”. Cụ thể, tại Điều 26 của Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định như sau: Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Như vậy, trong Bộ luật Dân sự năm 2005 không điều chỉnh đến vấn đề cá nhân được đặt tên như thế nào. Và như vậy, việc đặt tên như thế nào là quyền nhân thân của mỗi cá nhân và mọi người đều có quyền tự do lựa chọn tên và toàn quyền quyết định việc đặt tên như thế nào, miễn là việc đặt tên, sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Từ 1-1-2017, con trẻ sẽ không còn được đặt tên lai. Trong ảnh: Các cháu Trường mẫu giáo Auntex, Khu công nghiệp Đồng Xoài I - Ảnh: S.H
Tuy nhiên, ở Bộ luật Dân sự 2015 thì vấn đề nêu trên đã có sự điều chỉnh khác biệt. Cụ thể, Điều 26 về quyền có họ, tên trong Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau: Cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó. Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ... Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.
Theo quy định nêu trên, trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm quy định về việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Điều này có nghĩa là mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Đồng thời, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định rõ về việc đặt tên. Theo đó, tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.
Như vậy, từ trước tới nay và từ nay đến hết ngày 31-12-2016, mọi người đều có quyền đặt tên cho con mình là Hoàng Seoul, Nguyễn David, Trần Toyota, Lê Trần Victoria, Đoàn Pari, Đỗ Moskva, Vũ Roma..., nhưng bắt đầu từ ngày 1-1-2017, khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực thì sẽ không cho phép bất cứ ai làm điều này. Và bất cập xuất phát từ đây, bởi những người đang có vợ hoặc chồng là người nước ngoài (quốc tịch nước ngoài) và khi có con họ muốn đặt tên cho con theo ngôn ngữ ghép nửa Anh, hoặc Pháp, Đức, Ý, Mỹ, Úc... và nửa Việt Nam như Nguyễn Peter, Trần John, Lê Piter... thì với quy định như trên sẽ nảy sinh hai trường hợp. Thứ nhất là họ phải lấy quốc tịch cho con là người nước ngoài, để được đặt tên cho con theo ý muốn. Tuy nhiên, quốc gia mà đứa bé mang quốc tịch không quy định việc đặt tên cho con phải hoàn toàn bằng ngôn ngữ của quốc gia đó. Thứ hai là đứa trẻ nếu lấy quốc tịch Việt Nam thì bắt buộc phải đặt tên theo mẹ hoặc cha là người Việt. Tức là đứa trẻ này phải mang tên thuần túy Việt Nam.
N.D

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026