Vợ ông bảo: “Ung thư mà giấu đến tận bây giờ, kiếp người gì khổ đến tận ngày nhắm mắt”. Bà là vợ thứ, đến với ông khi người vợ trước mắc bạo bệnh qua đời và các con ông còn nhỏ dại. Bà tự nguyện theo ông mà không đòi danh phận, 3 đứa con của ông đều do bà nuôi lớn. Bà thậm chí không sinh con vì sợ tiếng “mẹ ghẻ - con chồng”.
Ông mất được một ngày thì các con mới trở về đông đủ vì đứa bận công tác, đứa đi du lịch và đứa đang ở tận nước ngoài. Khách của các con đến viếng, bà thấy được an ủi phần nào khi ông được nhiều người đưa tiễn. Chưa nguôi nỗi đau mất chồng, bà đã điếng người khi nghe 3 đứa con bàn chuyện chia tiền phúng viếng. Khói hương nghi ngút, ông còn nằm đây chưa ra khỏi nhà mà các con đã tính chuyện chia phần, sớm muộn chúng cũng chia nốt ngôi nhà bà đang ở.
Người thân đến chia buồn xuýt xoa rằng ông thật có phúc, các con đều thành đạt, hiếu lễ, đến lúc nhắm mắt hẳn cũng ngậm cười. Chỉ có tôi và những người hàng xóm lâu năm mới hiểu ông có “phúc” như thế nào. Lúc các con còn nhỏ, ông bà một miếng ngon cũng không dám ăn, bộ quần áo mới cũng trở nên xa xỉ, mọi thứ tốt đẹp đều dành cho con. Khi 3 đứa học đại học, ông oằn lưng làm thuê cuốc mướn để đều đặn hằng tháng gửi cho con dăm ba triệu sinh hoạt và học hành. Rồi thu nhập không đủ lo cho các con học, ông đành bán bớt đất, chỉ để lại căn nhà và khoảnh vườn nhỏ trồng ít rau, trái.
Các con ông thành đạt nhưng chẳng mấy khi về thăm ông bà, lâu lâu gửi ít tiền về cho ông bà gọi là có trách nhiệm. Người đàn bà 60 tuổi mới qua một tuần chịu tang chồng đã như già thêm chục tuổi. Bà bảo với tôi, ông đi rồi chắc bà cũng vào chùa ở cho thanh thản.
Đăng Triều