Thứ 2, 24/11/2025 19:13:32 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Xã hội 13:32, 07/05/2016 GMT+7

Để sống thọ, xin hãy bảo vệ môi trường

Thứ 7, 07/05/2016 | 13:32:00 87 lượt xem
BP - Với một tỉnh còn nhiều khó khăn, dân số nông thôn chiếm 83,2% số dân toàn tỉnh, có 41 thành phần dân tộc cùng sinh sống như Bình Phước thì việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã thực sự góp phần đổi mới diện mạo nông thôn, đưa người dân vùng nông thôn tiệm cận với mức sống ở các thị xã trong tỉnh. Khi áp dụng chương trình này đã giúp đưa chính sách hỗ trợ của Nhà nước vào cuộc sống, từng bước cải thiện đời sống người dân vùng khó khăn.

ĐỔI MỚI NÔNG THÔN...

Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMTNT) trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2012-2015 đã mang lại tín hiệu vui. Nâng tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh từ 85% cuối năm 2011 lên 90% cuối năm 2015. Đưa số người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt đạt Quy chuẩn 02 của Bộ Y tế từ 26% vào cuối năm 2011 lên 38% cuối năm 2015. 70% số trường mầm non và trường học phổ thông có đủ nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh. Nâng tỷ lệ hộ dân có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh từ 43% năm 2011 lên 55% cuối 2015. Nâng tỷ lệ hộ dân nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh từ 43% năm 2011 lên 55,51% cuối năm 2015. Đưa tỷ lệ trạm y tế xã có nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh từ 83,51% cuối 2011 lên 100% cuối năm 2015.

Được hỗ trợ đào giếng mới nên hộ ông Đoàn Văn Năm ở ấp 1, xã Minh Thành (Chơn Thành) không phải đi xin nước

Để giúp người dân có nguồn nước sử dụng đạt chuẩn, trong giai đoạn này chương trình đã hỗ trợ các xã xây dựng nông thôn mới lắp đặt thiết bị xử lý nước hộ gia đình với tổng 2,054 tỷ đồng. Hết năm 2015, có 15/20 xã chỉ đạo điểm xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 của tỉnh đạt tiêu chí nước sạch và vệ sinh môi trường. Từ nguồn vốn chương trình đã hoàn thành thi công xây lắp 15 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; sửa chữa, nâng cấp 6 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; đầu tư bổ sung mạng phân phối nước sạch ở huyện Bù Đăng; hoàn thành phương án hỗ trợ kinh phí cải tạo, nâng cấp giếng đào sóc 5, xã Minh Tâm (Hớn Quản); đang đầu tư 5 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung tại các xã; sửa chữa, nâng cấp công trình cấp nước sinh hoạt tập trung Rừng Cấm, huyện Lộc Ninh. Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh đã giải ngân cho 21.382 hộ dân vay vốn xây mới giếng đào, giếng khoan và cải tạo, nâng cấp nguồn nước bằng các thiết bị xử lý nước (mỗi công trình cho vay 4 triệu đồng). Kết quả có khoảng 5.346 hộ xây mới giếng đào, giếng khoan và lắp đặt hệ thống xử lý nước sinh hoạt; có 16.036 hộ hoàn thành cải tạo giếng.

Về xây dựng công trình cấp nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh cho trường mầm non, trường học phổ thông, đã có 43 công trình cấp nước và nhà vệ sinh được đầu tư xây dựng tại 43 điểm trường học. Qua tuyên truyền, vận động, hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật, 8.835 hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đã tự đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng công trình xử lý chất thải hợp vệ sinh trong chăn nuôi; đồng thời, hỗ trợ kinh phí cho 79 hộ dân xây công trình khí sinh học (biogas) trong chăn nuôi.

Từ nguồn vốn chương trình mục tiêu đã hỗ trợ kinh phí cho 1.674 hộ dân xây nhà tiêu; vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh đã cho 22.952 hộ dân nông thôn vay xây nhà tiêu hợp vệ sinh. Ngoài ra có khoảng 1.917 hộ dân tự đầu tư xây nhà tiêu hợp vệ sinh. Sở đã hoàn thành xây 16 nhà vệ sinh cho 16 trạm y tế xã. Đến cuối năm 2012 đã đạt mục tiêu 100% số trạm y tế xã có công trình cấp nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh.

... CÒN NHIỀU KHÓ KHĂN

Tuy chương trình được triển khai rộng rãi trên địa bàn nông thôn và đạt nhiều kết quả đáng mừng nhưng thực tế nhu cầu cải thiện mặt bằng chung về NS&VSMTNT còn phụ thuộc nhiều yếu tố. Đời sống của đa số hộ dân vùng nông thôn còn khó khăn, nhiều hộ chưa tự lo được nước sinh hoạt. Bên cạnh đó, ý thức của người dân nông thôn bảo vệ nguồn nước còn thấp nên chất lượng nước sinh hoạt ngày càng giảm. Nguồn nước sinh hoạt ở nhiều nơi rất hạn chế, chất lượng nước ngầm bị nhiễm phèn, chi phí xử lý nước cao. Nguồn nước mặt (sông, suối) thường cạn kiệt về mùa khô và mực nước dao động cao giữa hai mùa nên khó khai thác. Các công trình hồ chứa thủy lợi còn quá ít, chưa đáp ứng yêu cầu bổ sung nguồn nước.

Bên cạnh đó, nguồn vốn Trung ương bố trí hằng năm thực hiện NS&VSMTNT chưa đáp ứng nhu cầu là khó khăn chính cho quá trình thực hiện chương trình. Trong khi đó, việc huy động nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước chưa đạt được hiệu quả cao. Doanh nghiệp chưa tham gia vào quá trình xã hội hóa đầu tư xây dựng công trình cấp NS&VSMTNT dù tỉnh đã có chủ trương, chính sách để thực hiện xã hội hóa nhưng do suất đầu tư công trình lớn, khả năng thu hồi vốn từ công trình gặp khó khăn.

Giai đoạn 2012-2015, tổng vốn đầu tư cấp NS&VSMTNT toàn tỉnh 197,925 tỷ đồng, trong đó vốn chương trình mục tiêu quốc gia 61,195 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương 4,73 tỷ đồng, vốn vay tín dụng từ Ngân hàng Chính sách xã hội 116 tỷ đồng, vốn dân đóng góp 6 tỷ đồng, vốn dân đầu tư 10 tỷ đồng. Tổng vốn được giải ngân trong giai đoạn 189,771 tỷ đồng, đạt 95,88% kế hoạch giao, trong đó giải ngân đạt tỷ lệ thấp nhất là vốn chương trình mục tiêu quốc gia với 53,05 tỷ đồng, đạt 86,69%.

Tỷ lệ người dân được sử dụng nước sinh hoạt theo Quy chuẩn 02 của Bộ Y tế còn rất thấp (mới đạt 38% vào cuối năm 2015). Do đó, cần thiết thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng nước sinh hoạt đạt Quy chuẩn 02 cho hộ dân nông thôn (hộ dân sử dụng nước sinh hoạt từ giếng đào, giếng khoan nhỏ lẻ); đồng thời đầu tư, nâng cấp, sửa chữa, mở rộng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung đã được xây dựng từ năm 2015 trở về trước để tăng hiệu quả công trình và tăng số lượng người dân được sử dụng nước sinh hoạt từ các công trình.

Người dân nông thôn được sử dụng nhà tiêu và số hộ dân chăn nuôi có chuồng trại hợp vệ sinh còn thấp (mới đạt 55% vào cuối năm 2015). Vì vậy, cần tiếp tục tuyên truyền, vận động và hỗ trợ người dân nâng cao tỷ lệ này, góp phần cải thiện môi trường nông thôn.

Những năm qua, dù chương trình đã tích cực thực hiện nhưng do vốn bố trí hằng năm hạn hẹp mà nhu cầu quá lớn nên đến năm 2015 mới đạt 100% số trường học là điểm trường chính có công trình cấp nước đạt Quy chuẩn 02 và nhà tiêu hợp vệ sinh, còn khoảng gần 200 điểm trường lẻ chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh. Vì vậy, thời gian tới, cần phấn đấu giải quyết đủ 100% số trường học đảm bảo được cấp nước và có nhà tiêu đúng quy chuẩn.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu như hiện nay thì nước sạch và vệ sinh môi trường đang trở thành vấn đề “nóng”. Vì vậy, Chương trình mục tiêu quốc gia NS&VSMTNT được triển khai tại Bình Phước đã và đang góp phần bảo vệ, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân vùng nông thôn. Tuy nhiên những con số thể hiện kết quả của chương trình chưa “thấm tháp” so với nhu cầu thực tiễn của cuộc sống. Do vậy, trước hết mỗi người dân hãy tự nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, nguồn nước, sử dụng tiết kiệm và chung sức cùng cộng đồng từng bước đổi mới nông thôn để bảo vệ sức khỏe của bản thân, gia đình và xã hội.    

Hải Châu

  • Từ khóa
54868

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu
Năm 2023 Bình Phước đứng thứ bao nhiêu xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, thành cả nước?