BP - Ngô Quyền - Kỷ Mùi (899): Là anh hùng dân tộc, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kỳ Bắc thuộc của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô và mở đầu giai đoạn quốc gia độc lập. Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị “vua đứng đầu các vua”, là vị Tổ Trung hưng của Việt Nam.
Lý Thường Kiệt - Kỷ Mùi (1019): Tên thật của ông là Ngô Tuấn, người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Cha ông làm Thái úy đời Lý Thái Tông, quê ở huyện Câu Lậu, Tế Giang (nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên), được vua ban quốc tính nên mới có tên là Lý Thường Kiệt. Ông có công lớn trong việc giúp nhà Lý hai lần đánh bại quân Tống xâm lược vào năm 1075 và năm 1077. Ông là một vị tướng nổi tiếng nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Phi Khanh - Ất Mùi (1355): Ông là Hàn lâm học sĩ thời nhà Hồ và là thân sinh của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Quê ông ở xã Chí Ngãi, huyện Chí Linh (nay là phường Cộng Hòa, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau dời về xã Ngọc Ổi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Năm 1407, khi quân Minh xâm lược nước Việt, Nguyễn Phi Khanh bị Trương Phụ bắt và giải về Trung Quốc, Nguyễn Trãi khóc chạy theo cha ra đến ải Nam Quan. Phi Khanh quay lại bảo Nguyễn Trãi quay về Thăng Long nuôi chí diệt giặc mới là làm tròn đại hiếu.
Phan Khiêm Ích - Kỷ Mùi (1679): Là nhà thơ quê xã Nhân Thắng, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Thám hoa đời vua Lê Dụ Tôn và ra làm quan đến chức Lễ bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, sau thăng đến chức Thái tể (tể tướng). Sử gia Phan Huy Chú nhận định về ông như sau: Văn chương đức hạnh của ông làm khuôn phép cho thời bấy giờ. Khi đi sứ Yên Kinh, ông làm cho quốc thể thêm long trọng. Lúc ông cầm quyền chỉ chuộng khoan thứ rộng rãi. Về già, ông bị bọn tiểu nhân gièm pha... không thi thố hết được sở năng.
Hồ Sĩ Đống - Kỷ Mùi (1739): Quê ông ở làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Khoa Nhâm Thìn đời vua Lê Hiển Tông, Hồ Sĩ Đống đỗ Hội nguyên, rồi Đình nguyên hoàng giáp, được bổ chức quan. Năm Giáp Ngọ, ông được cử làm Bố chính Kinh Bắc. Nhưng không lâu sau, ông nhận lệnh trở về kinh đô Thăng Long, rồi sang làm Án sát Hải Dương. Sau đó, biết ông có tài năng, chúa Trịnh cho triệu ông về coi việc chính sự trong phủ. Buổi đầu, cử ông làm Đô chỉ huy sứ, sau thăng làm Tham đốc quyền phủ sự (ngang với chức Thượng thư), tước Ban quận công.
Phan Huy Ích - Tân Mùi (1751): Ông tên thật là Phan Công Huệ, quê ở làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Do kiêng húy của Tuyên phi Đặng Thị Huệ, về sau ông đổi tên là Huy Ích. Sau khi đỗ giải nguyên, ông được triều đình thu dụng và bổ nhiệm một chức quan nhỏ tại trấn Sơn Nam. Ông trở thành học trò của Ngô Thì Sĩ. Năm 1775, ông cùng người anh vợ là Ngô Thì Nhậm dự thi Hội và cùng đỗ tiến sĩ. Ông phò tá Quang Trung, làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Ông để lại nhiều tác phẩm thơ văn nổi tiếng, nhất là bản dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị.
Nguyễn Văn Siêu - Kỷ Mùi (1799): Quê ông ở làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Ông đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất (1838) dưới triều vua Minh Mạng. Sau khi việc chữa bài thi của Cao Bá Quát bị phát giác, Nguyễn Văn Siêu phải tội trượng, đồ. Sau vua xét lại, ông chỉ bị cách chức. Năm 1849, Nguyễn Văn Siêu được cử làm Phó sứ trong đoàn đi sứ sang nhà Thanh. Về nước, ông được thăng làm Học sĩ ở Viện Tập hiền. Năm 1851, ông ra làm Án sát Hà Tĩnh, rồi Án sát Hưng Yên. Ông là người đã đứng ra tu sửa đền Ngọc Sơn, bắc cầu Thê Húc, xây Tháp Bút và Đài Nghiên... tại Hồ Gươm (Hà Nội).
Nguyễn Tư Giản - Quý Mùi (1823): Là người làng Du Lãm (Tiên Sơn, Bắc Ninh). Năm Mậu Thìn (1868), ông được vua chọn đi sứ sang nhà Thanh. Sang Trung Quốc, Nguyễn Tư Giản học hỏi được nhiều điều, nên khi về nước ông cùng Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Bùi Viện dâng sớ lên vua Tự Đức đề nghị một chương trình canh tân tự cường, như cho mở rộng bang giao với các nước phương Tây, cử học sinh ra nước ngoài để học kỹ nghệ mới lạ... Sau vua Đồng Khánh lên ngôi, Nguyễn Tư Giản được cử giữ chức Thị lang bộ Hộ. Ông mất năm 1890, để lại một sự nghiệp văn chương khá đồ sộ và phong phú.
Nguyễn Khuyến - Ất Mùi (1835): Tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh (nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Quê nội của ông ở làng Vị Hạ, xã Yên Đỗ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Ông đi thi đỗ đầu ba khóa: Hương, Hội, đình nên người ta gọi là Tam nguyên Yên Đỗ. Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn, nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được. Ông đã để lại khoảng 300 bài thơ trong tập Quế Sơn thi tập.

Phan Đình Phùng - Đinh Mùi (1847): Sinh ra và lớn lên tại làng Đông Thái, huyện La Sơn (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1877, ông thi đậu Đình nguyên và được bổ làm tri huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình). Năm 1885, hưởng ứng dụ Cần Vương của vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng đứng ra chiêu tập lực lượng từ khắp các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, để chống ngoại xâm. Suốt 10 năm (1885-1896), bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ, cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã giao chiến với Pháp nhiều trận và gây cho đối phương nhiều tổn thất nặng nề.
Hàm Nghi - Tân Mùi (1871): Vua Hàm Nghi tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, là vị hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Đêm 22 rạng 23-4-1885, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết vì thấy người Pháp khinh mạn vua nên quyết định đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Sinh ra và lớn lên tại làng Đông Thái, huyện La Sơn (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1877, ông thi đậu Đình nguyên và được bổ làm tri huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình). Năm 1885, hưởng ứng dụ Cần Vương của vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng đứng ra chiêu tập lực lượng từ khắp các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, để chống ngoại xâm. Suốt 11 năm (1885-1896), bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ, cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã giao chiến với Pháp nhiều trận và gây cho đối phương nhiều tổn thất nặng nề.
Phạm Duy Tốn - Quý Mùi (1883): Nguyên quán của ông ở làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). Ông nổi tiếng là một thông ngôn có bản sắc riêng. Sau khi bỏ việc thông ngôn, Phạm Duy Tốn đi dạy học ở trường Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội. Phạm Duy Tốn cùng Nguyễn Văn Vĩnh là hai trong số những người sáng lập phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội năm 1907. Sau khi thôi dạy học, ông quyết định theo đuổi nghề viết văn, làm báo.

Trường Chinh - Đinh Mùi (1907): Ông có tên thật là Đặng Xuân Khu, quê ở thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Từ năm 1925, khi còn học ở bậc Thành chung, ông đã tham gia phong trào đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu, lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh. Năm 1927, 1929, ông tham gia cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ và trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng. Năm 1930, ông được chỉ định vào Ban tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 5-1941, tại Hội nghị Trung ương 8 họp ở Cao Bằng, ông được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt. Tháng 3-1945, ông triệu tập và chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị nổi tiếng “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Năm 1951, tại Đại hội lần thứ 2 của Đảng, ông được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và giữ chức Tổng Bí thư cho đến tháng 10-1956. Năm 1960, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Năm 1981, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 14-7-1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương, ông được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thay cho Tổng bí thư Lê Duẩn vừa mất. Tháng 12-1986, tại Đại hội Đảng lần thứ 6, ông rút khỏi các chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước và được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương cao quý khác.

Lê Duẩn - Đinh Mùi (1907): Tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1928, ông tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1929, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông là Ủy viên Ban Tuyên huấn xứ ủy Bắc Kỳ. Ngày 20-4-1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo. Năm 1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung kỳ. Năm 1937, làm Bí thư Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1939, ông được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, ông tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6. Năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1946, ông được cử làm việc bên cạnh Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh. Từ năm 1946 đến 1954, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam bộ (sau đổi thành Trung ương Cục miền Nam). Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ 2, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Năm 1952, ông ra Việt Bắc. Từ năm 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo cách mạng miền Nam. Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội và được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng. Tháng 9-1960, ông được bầu giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương. Tại các đại hội toàn quốc lần thứ IV (12-1976) và lần thứ V (3-1982), ông tiếp tục được bầu giữ chức Tổng bí thư đến khi mất.
Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII. Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác.
Ngọc Hân

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026