Thứ 5, 27/11/2025 00:08:35 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Xã hội 10:30, 24/01/2015 GMT+7

Thực trạng sử dụng nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh

Thứ 7, 24/01/2015 | 10:30:00 643 lượt xem
BP - Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 70% người dân nông thôn sử dụng nước sinh hoạt từ các giếng đào và giếng khoan. Còn lại khoảng 30% người dân sử dụng nước sinh hoạt từ các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Theo thống kê của ngành nông nghiệp thì hiện nay, người dân nông thôn tiếp cận với thông tin cũng như thiết bị xử lý nước tiên tiến chưa nhiều. Vì vậy, nguy cơ sử dụng nước không hợp vệ sinh là không nhỏ.


Bể lọc sắt của gia đình ông Đặng Ngọc Trác, ấp 6, xã Tân Thành (TX. Đồng Xoài)

Theo kết quả quan trắc chất lượng nước định kỳ đợt 1 và đợt 2 năm 2014 tại 113 nguồn nước trên địa bàn tỉnh do Viện kỹ thuật biển thực hiện thì đối với các chỉ tiêu như mùi vị, màu, hàm lượng amoni, độ cứng, hàm lượng florua, hàm lượng asen, hàm lượng clorua có 100% nguồn nước được quan trắc đạt tiêu chuẩn. Đối với chỉ tiêu về độ đục có khoảng 92,92% nguồn nước quan trắc đạt tiêu chuẩn. Đối với chỉ tiêu về hàm lượng clorua dư có khoảng 82,30% nguồn nước được quan trắc đạt tiêu chuẩn. Đối với chỉ tiêu pH có khoảng 51,33% nguồn nước đạt tiêu chuẩn. Đối với chỉ tiêu chuyển Pecmangnat có khoảng 90,27% nguồn nước đạt tiêu chuẩn. Đối với chỉ tiêu hàm lượng sắt có khoảng 86,73% nguồn nước đạt tiêu chuẩn.

Tuy nhiên, số nguồn nước đạt tiêu chuẩn trên lại có hàm lượng Ecoli gần vượt mức cho phép. Số còn lại không đạt tiêu chuẩn cho phép. Đặc biệt là nước ở các công trình giếng đào ở vị trí địa hình thấp và không xây sân, miệng và nắp giếng hoặc có nhưng đã bị xuống cấp hay hư hỏng thì hàm lượng các vi sinh vượt tiêu chuẩn nhiều lần. Có khoảng 46,02% nguồn nước được quan trắc có hàm lượng coliform đạt tiêu chuẩn. Một trong những nguyên nhân để hàm lượng vi sinh (ecoli và coliform) vượt tiêu chuẩn cho phép là do một số công trình được quan trắc đã xuống cấp hay hư hỏng, một số khác không được xây dựng đúng quy cách theo tiêu chuẩn giếng hợp vệ sinh. Một số công trình được xây dựng ở khu vực vùng trũng, thấp, khoảng cách giữa nguồn nước đến nhà vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi không đảm bảo an toàn (<10m) nên nguồn nước bị nhiễm bẩn dẫn đến hàm lượng vi sinh cao. Đặc biệt, có một số nguồn nước mặt do tình trạng thiếu nước về mùa khô nên các loại thực vật như cây, cỏ mọc trở lại, gây ô nhiễm nguồn nước.

Để giúp người dân nông thôn bảo vệ nguồn nước không bị ô nhiễm, đảm bảo hợp vệ sinh cho người sử dụng, thời gian qua ngành nông nghiệp đã đẩy mạnh tuyên truyền về nước sạch và vệ sinh môi trường. Ngành cũng đã tuyên truyền, vận động nhân dân sử dụng nước tiết kiệm, không khai thác nước ngầm bừa bãi, nhằm bảo vệ trữ lượng và chất lượng theo quy định.

Ngành nông nghiệp đã nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao một số công nghệ xử lý nước hộ gia đình ở nông thôn trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cao chất lượng nước sinh hoạt đạt Quy chuẩn số 02:2009/BYT của Bộ Y tế. Trong 2 năm 2013, 2014, Chi cục Thủy lợi và phòng chống lụt bão đã triển khai thí điểm ứng dụng công nghệ xử lý nước sinh hoạt nông thôn hộ gia đình trên địa bàn 19 xã xây dựng nông thôn mới chưa đạt tiêu chí nước sinh hoạt. Hai loại hình công nghệ xử lý nước được lựa chọn ứng dụng là bể lọc sắt và thiết bị lọc nước aluwat. Đây là công nghệ đơn giản, dễ lắp đặt, dễ sử dụng và quản lý, vận hành. Từ 2 mô hình xử lý nước được áp dụng đã giải quyết bài toán về chất lượng nước đáp ứng Quy chuẩn 02 của Bộ Y tế, từ đó giúp người dân yên tâm về chất lượng nước trong sinh hoạt, đảm bảo sức khỏe.

Đối với những khu vực dân cư sinh sống tập trung, nước ngầm từ các giếng đào có nguy cơ bị ô nhiễm, sẽ tiếp tục khảo sát, lấy ý kiến của người dân để đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung, phục vụ nước sinh hoạt cho người dân.                   

Phương Dung

  • Từ khóa
50758

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu
Năm 2023 Bình Phước đứng thứ bao nhiêu xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, thành cả nước?