Trên địa bàn tỉnh Bình Phước hiện còn 2 anh hùng. Một người là Anh hùng Lao động Lâm Búp, dân tộc Khơme, hiện cư ngụ tại xã Nha Bích, huyện Chơn Thành. Một người là Anh hùng Lực lượng vũ trang (LLVT), cựu chiến binh, thiếu tá Dương Đức Thùng, hiện sống tại xóm 5, ấp 2, xã Tiến Thành, thị xã Đồng Xoài. Thành tích của Anh hùng LLVT Dương Đức Thùng trong quân đội đã được Nhà nước ghi nhận và trở thành tấm gương sáng trong đơn vị những ngày ông còn tại ngũ. Thế nhưng, thành tích trong lao động, sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, đóng góp cho màu xanh quê hương của ông Thùng cũng xứng đáng được ghi nhận. Khi đến thăm nhà và khu vườn rẫy của gia đình ông, ai cũng ngạc nhiên vì ngoài những vườn cây trồng xanh tươi đang cho sản phẩm như cao su, điều còn có những khoảnh rừng với những cây thuộc loại gỗ nhóm II.
Anh hùng Dương Đức Thùng sinh năm 1954, dân tộc Nùng, quê ở xã Quốc Toản, huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ tháng 8-1974. Ông đã từng tham gia giải phóng miền Nam và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Từ năm 1979 đến 1983, ông là chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia. Năm 1990, ông được nghỉ chế độ mất sức và cùng gia đình an cư, lập nghiệp ở quê hương mới Bình Phước.
Những năm của thập niên 90 (thế kỷ XX), người dân mới đến lập nghiệp trên đất Bình Phước còn gặp vô vàn khó khăn: khí hậu khắc nghiệt, bệnh sốt rét hoành hành, đất đai hoang hóa, cỏ dại nhiều... Trong khi sức người có hạn, máy móc, thuốc bảo vệ thực vật chưa có để hỗ trợ người khai hoang. Vì mê đất, yêu quý lao động, sản xuất, ông Thùng cùng vợ và 3 đứa con nhỏ vẫn quyết chí bám trụ nơi vùng đất mới. Nhà ở chưa có, ông ở nhờ người thân. Vốn liếng không có gì ngoài đôi bàn tay đã chai sần. Ông Thùng bắt đầu công việc khai hoang, cải tạo đất ở ấp Bưng Xê (xã Tân Thành, thị xã Đồng Xoài). Ông bảo: Hồi ấy, đây là khu bưng bàu bỏ hoang, chỉ có cỏ lác, cỏ mỹ và những bụi le mọc um tùm. Vậy mà chỉ qua một thời gian, vợ chồng ông đã định hình nên mảnh vườn 6 ha, trong đó có 1 ha trồng lúa nước, mỗi năm cho thu hoạch hàng tấn lúa. Có đủ lương thực, ông bà vừa trồng cây lâu năm, xen canh cây ngắn ngày như đậu, bắp, rau..., kết hợp với chăn nuôi để có nguồn thực phẩm tại chỗ và “lấy ngắn nuôi dài”. Cuộc sống của gia đình cứ thế khá dần lên qua từng mùa rẫy. Hằng ngày, với cây dao rựa, cây cuốc, đôi chân trần và một tinh thần làm việc miệt mài, lúc nào ông Thùng cũng có mặt trên rẫy. Có người biết ông là Anh hùng LLVT thì bảo “đúng là anh hùng chân đất, khó ai mà theo kịp được!”. Sau nhiều năm, 6 ha vườn ở Bưng Xê đã ổn định, cao su, cây điều đã lên xanh tốt và cho những sản phẩm đầu tiên. Điều đáng nói là khi khai hoang, ông để lại một khoảnh cây rừng tái sinh khoảng 2 sào. Sau hơn 20 năm, những cây lim xẹt, bằng lăng... đã cao lớn, vươn mình tỏa bóng mát trong khuôn viên vườn nhà.
Ông Dương Đức Thùng nhập ngũ tháng 8-1974, là chiến sĩ tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, xuân 1975. Từ năm 1979 đến 1983, ông làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia. Ông đã được tặng thưởng: huân chương Chiến công hạng Ba; 2 lần được tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua”; 18 giấy khen; được Chính phủ Vương quốc Campuchia tặng Huân chương. Ngày 25-1-1983, ông được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Khi được tuyên dương Anh hùng, ông Dương Đức Thùng là chuẩn úy, Đại đội trưởng đại đội công binh, Tiểu đoàn 4, Lữ đoàn Công binh 25, Quân đoàn 4.
|
Ngoài khu vườn rẫy ở Bưng Sê, ông Thùng còn phát hoang, cải tạo đất, lập vườn tại xóm 5, ấp 2, xã Tiến Thành. Hiện Bưng Sê là nơi an cư, lập nghiệp của người con cả, vợ chồng ông và con út về cư ngụ tại vườn rẫy ở ấp 2. Nơi đây tuy chỉ có 4 ha nhưng để có được thành quả với vườn cây, ao cá và 2 sào cây rừng nguyên sinh như bây giờ quả không đơn giản. Nhớ lại những ngày tháng gian khổ, ông Thùng nói: “Làm vườn là phải có lòng kiên nhẫn và niềm tin vào ngày mai”. Ông cùng với cây cuốc, cây dao, bất kể nắng mưa, đào từng bụi cỏ tranh, lượm từng cái rễ, công sức, mồ hôi, nước mắt và cả máu của vợ chồng ông đổ ra không kể xiết. Năm tháng trôi qua, công sức lao động của ông được đền đáp. Vườn nhà được định hình, cao su đã cho những giọt “vàng trắng”; cây điều thơm trái ngọt đầu mùa và dưới ao những đàn cá lớn dần. Hiện mỗi năm tại vườn nhà (ở ấp 2) tổng thu sản phẩm của gia đình ông từ 70 đến 100 triệu đồng.
Dẫn chúng tôi đi dạo dưới vườn cây rừng nguyên sinh cạnh vườn điều, ông Thùng vỗ vào từng thân cây sao, cây gõ, bằng lăng... đường kính đã 30-40cm, rồi chỉ vào từng hố bom còn hiện hữu bên gốc cây, ông cười thật tươi: “Tháng 4-2012 có một ông giáo sư người Nhật, được Hội Cựu chiến binh tỉnh dẫn vào tham quan, ông ấy mê những cây này lắm”. Đúng vậy, ngay ven thị xã, trung tâm của một tỉnh không có sông ngòi như Đồng Xoài nếu có thêm nhiều vườn cây nguyên sinh như vậy thì không khí sẽ càng trong lành... Hỏi ông, khi nào thì khai thác những cây này? Ông Thùng cười hiền lành: “Tôi giữ khu cây rừng này lại để làm kỷ niệm, để nhớ mãi những tháng ngày trong đời bộ đội đã từng sống chết với rừng, nhờ rừng cây chở che. Tôi sẽ dặn con cháu dứt khoát không được phá đi khi chưa trồng được một vườn cây rừng khác như thế”!
Tiến Bình