Làm thế nào để thu hút giáo viên về vùng sâu, vùng xa?
(Đăng Báo Bình Phước, ngày 12-3-1997)
NHƯ HẢI
“Trải chiếu hoa để mời đầu tư” - đó là chuyện làm ăn kinh tế. Đã rõ và rất đúng với thời kinh tế mở. Còn trải cái gì để thu hút giáo viên về với các em học sinh đồng bào vùng dân tộc thiểu số? Một bài tính đang cần nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều người tham gia tìm lời giải.
THỰC TIỄN ĐẦY KHÓ KHĂN
Vốn là người đã được sống gần đồng bào các dân tộc thiểu số nhiều năm nhưng tôi thật sự ngạc nhiên và “sợ” cái khí hậu khắc nghiệt mùa khô ở vùng biên giới Đăk-ơ (Phước Long). Mỗi lần có xe cơ giới chạy qua là ai đi trên đường đều “hóa thân” trong luồng gió bụi đỏ ngầu. Ngay cả học sinh đang học trong lớp ở trường PTCS Đăk-ơ và trường Tiểu học Bù Gia Mập, mỗi cơn gió qua cũng làm các em và thầy cô vội nâng vạt áo che mồm, mũi. Ngột ngạt đến khó thở. Ngồi làm việc với các thầy, cô trong phòng ban giám hiệu chưa đầy nửa giờ đồng hồ mà sổ sách, áo quần đã nhuốm màu bụi đất đỏ.
Hơn 1.100 học sinh của xã Đăk-ơ cứ hàng ngày đến lớp trong nắng gió 4-5 cây số đường rừng. Vào trong lớp rồi cũng đâu đã yên với gió bụi. Đồng bào còn nghèo, con em còn khổ. Không phải chuyện muôn thuở nhưng cũng phải dài dài. Với điều kiện một tỉnh miền núi nghèo như Bình Phước thì việc đi lại, học hành còn nhiều gian truân lắm. Cơ sở vật chất trường lớp thiếu, giáo viên thiếu. Cả tỉnh còn thiếu gần 2.000 giáo viên, trong đó thiếu trầm trọng nhất là giáo viên cấp 1: gần 1.200. Chủ yếu là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chưa nói đến chất lượng giáo dục. Riêng con số thiếu giáo viên đó đã là một thực tiễn đầy khó khăn cho ngành giáo dục tỉnh nhà.
LÒNG NGƯỜI CHƯA YÊN ỔN
Biết bao hình ảnh các cô giáo trẻ từ miền xuôi lên dạy chữ cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số đã và đang phải chịu cảnh ở lán tranh tạm, không chợ búa, không sách báo, và… không cả tình yêu đôi lứa. Tâm sự với không ít thầy cô ở các huyện Lộc Ninh, Phước Long, Bù Đăng thì sự chấp nhận khó khăn đó như một định mệnh. Một là đã trót theo nghề thầy giáo, hai là cũng cố gắng cho hết thời gian “thử thách” để được về xuôi. Chứ nói thực lòng vì sự nghiệp giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu số thì nghe còn “ngập ngừng” lắm. Tất nhiên không ít trường hợp thầy cô kết đôi vợ chồng, nguyện ở lâu dài cũng tùy theo điều kiện. Gọi là tạm ổn như thầy Khánh và cô Yến trường PTCS Đăk-ơ, 7 năm gắn bó với con em đồng bào dân tộc thiểu số ở đây, nhưng đến bây giờ vẫn còn “chờn chợn” với những gì bất trắc xảy ra: ốm đau, bệnh tật… Có nghĩa là vẫn chưa yên lòng. Thầy Hà Văn Phương, Hiệu phó Trường Bù Gia Mập, còn trẻ lắm. Chưa vợ. Lương và phụ cấp gần 300.000 đồng/tháng, thầy nói vui “không biết góp đến bao giờ cho đủ tiền cưới vợ”. Nhưng thầy lại tự an ủi mình bằng cách là đồng bào còn khổ hơn: “Vừa rồi đích thân thôn trưởng Dương Văn Dai vận động bà con ra sửa lại 5 gian nhà lá đã xiêu vẹo, gọi là “củng cố, tu sửa” lại khu trường chính cho con em ngồi học”. Và thầy cũng bộc bạch tâm tình: “Thực sự yêu thương các em và thông cảm với khó khăn của đồng bào mà cố gắng dạy được nhiều chữ cho các em”.
Có điều không khỏi băn khoăn là ở các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể một số địa phương rất ít quan tâm đến giáo dục. Coi chuyện dạy và học chỉ là việc của thầy và trò. Đã không tạo điều kiện cơ sở vật chất, nơi ăn ở cho thầy cô mà ngay cả động viên về tinh thần nhân ngày nhà giáo, ngày Tết, ngày lễ tổng kết… cũng không (!).
Rồi cả đời sống chính trị cũng thế. Trong tổng số giáo viên đang giảng dạy ở tỉnh nhà gần 3.900 người thì mới có 204 giáo viên là đảng viên. Các huyện Đồng Phú, Phước Long và Lộc Ninh, tỉ lệ giáo viên là đảng viên chưa nổi 5% trong tổng số giáo viên. Đây là vấn đề mà các cấp ủy đảng ở địa phương phải nhìn thẳng vào một thực tế là còn thiếu sự chăm lo đúng mức đến đời sống chính trị của đội ngũ giáo viên.
HÃY CÙNG TÌM GIẢI PHÁP
Khi làm việc với các đồng chí lãnh đạo của Sở Giáo dục tỉnh nhà thì phải khẳng định việc “mời gọi”, “thu hút” giáo viên về vùng sâu, vùng xa là một vấn đề cực kỳ nan giải. Lấp được khoảng trống thiếu giáo viên trong các năm học tới đang là vấn đề bức xúc đòi hỏi các cấp, các ngành hữu quan cùng “xắn tay” vào việc thì mới giải quyết được. Biết là vậy, nhưng thực tế thì không ít lúng túng trong việc tìm ra những giải pháp, cách làm cụ thể có hiệu quả như mời gọi đầu tư làm kinh tế.
Đã xác định sự nghiệp giáo dục là của toàn xã hội cùng chăm lo, thì càng phải đề cao những phương châm “nhà nước và nhân dân cùng lo”. Ngoài những chính sách ưu tiên của nhà nước có tính pháp lệnh thì từng địa phương phải thật sự quan tâm đến đội ngũ giáo viên theo đúng khả năng của địa phương mình. Lo nơi ăn ở chu đáo cho giáo viên như một thành viên cán bộ của xã. Người có tâm huyết, có gia đình “trụ” lại lâu dài cần có chế độ ưu tiên, cấp đất đai, giúp làm nhà để họ yên tâm công tác. Và, ngay cả những giáo viên sống độc thân cũng cần phải như vậy. Phải thấy một thực tế là có hơn 50% số nữ giáo viên do công tác vùng sâu, vùng xa mà muộn mằn hạnh phúc gia đình thì cũng rất cần được chăm lo như những người đã có gia đình riêng.
Ở mỗi địa phương cần xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục. Phát triển đảng viên trong đội ngũ giáo viên phải đưa vào nghị quyết của đảng bộ, coi đây là lực lượng nòng cốt để nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao dân trí vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương mình theo đúng tinh thần Nghị quyết TW2.
Ở những xã quá khó khăn thì huyện, tỉnh cùng giúp sức chăm lo. Bằng mọi cách để mỗi giáo viên giảng dạy ở vùng sâu, vùng xa có được cuộc sống tương đối ổn định cả về vật chất và tinh thần, sự so sánh với các vùng khác không quá chênh lệch thì họ mới yên tâm công tác được. Khi chúng tôi trao đổi ý kiến với các trưởng phòng giáo dục của huyện Lộc Ninh và Bù Đăng thì các đồng chí đều chung kiến nghị là phải giữ được mức trợ cấp cho giáo viên theo chính sách 1396 của UBND tỉnh Sông Bé (cũ) nhưng cũng nên trợ cấp thêm khoảng 50% cho những giáo viên ở những vùng quá khó khăn.