BP - Bình Phước đã có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, trong đó khối doanh nghiệp (DN) đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng. Tuy nhiên ở tỉnh chủ yếu vẫn là DN nhỏ và vừa, trong khi tiềm năng, lợi thế (cao su, tiêu, điều…) để thúc đẩy DN lớn phát triển lại rất nhiều, đó chính là cơ hội “mở” mời gọi, thu hút đầu tư. Vì thế, tỉnh đặt ra mục tiêu phải tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi để DN có điều kiện tiếp cận cơ hội và phát huy tối đa thế mạnh trong hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Phát triển DN theo hướng bền vững, góp phần giải quyết việc làm cho lao động, tăng thu ngân sách địa phương (theo Chương trình phát triển DN tỉnh giai đoạn 2016-2020 tại Quyết định số 2100/QĐ-UBND ngày 8-8-2016 của UBND tỉnh).
DN GẶP NHIỀU KHÓ KHĂN
Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, DN trên địa bàn tỉnh đã phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô. Đến cuối năm 2015, toàn tỉnh có 4.614 DN đăng ký thành lập với tổng vốn đăng ký 33.808 tỷ đồng, hoạt động nhiều ngành nghề, lĩnh vực như: thương nghiệp 2.624 DN (56,87%), xây dựng 789 DN (17%), chế biến 919 DN (20%), nông nghiệp 282 DN (6%). Giai đoạn 2011-2015, DN trên địa bàn đã đóng góp cho ngân sách tỉnh khoảng 10.488 tỷ đồng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Công nhân Nhà máy chế biến trung tâm (Công ty TNHH MTV cao su Phú Riềng) đóng gói sản phẩm cao su để xuất khẩu
Tuy nhiên DN đang gặp nhiều khó khăn: Số DN ngừng, giải thể và không phát sinh doanh thu chưa giảm. Khảo sát thực tế 500 DN thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh năm 2015 cho thấy có 45,6% DN nhận định rằng năng lực cạnh tranh là khó khăn lớn nhất; 41,8% DN cho rằng nguồn cung/cầu hàng hóa giảm; 27,4% DN gặp khó trong tiếp cận nguồn tín dụng; 18,8% DN khó tiếp cận thị trường mới; 13,8% khó khăn về nhân lực; 10,8% DN khó khăn về thủ tục hành chính; 10,4% DN khó khăn về giá thuê đất, mặt bằng. Khó khăn về thuế và hải quan chiếm tỷ lệ thấp nhất, lần lượt 3,6% và 1%.
Từ thực tế cho thấy, đa phần DN trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, tiềm lực kinh tế hạn chế, khả năng tiếp cận các nguồn vốn, đổi mới công nghệ, thiết bị khó khăn; sức cạnh tranh yếu, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; trong quá trình hoạt động còn phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường. Trình độ, năng lực của đội ngũ quản lý DN và tay nghề của người lao động còn hạn chế, nhất là kiến thức về pháp luật, quản trị kinh doanh, ngoại ngữ, tin học, hội nhập kinh tế quốc tế... Chủ DN chưa mạnh dạn mở rộng hợp tác liên doanh liên kết, chưa quan tâm xây dựng chiến lược phát triển DN và thương hiệu sản phẩm, thương hiệu cho DN. Quản lý tài chính, hạch toán kế toán của DN còn nhiều bất cập. Kim ngạch xuất khẩu chủ yếu là nông sản, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô còn khá lớn, giá trị hàng hóa thấp, tính cạnh tranh không cao, thị trường không ổn định, phụ thuộc rất lớn vào sự tác động của thị trường nước ngoài.
XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU,
MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
Thời gian qua, tỉnh đã có nhiều chính sách ưu đãi, mở không ít hội nghị, hội thảo gặp gỡ DN để nắm tình hình và tháo gỡ vướng mắc kịp thời cho DN. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu giai đoạn 2016-2020, tỉnh đã đưa ra những giải pháp mang tính chiến lược nhằm vực dậy DN. Trước hết các sở, ban, ngành, huyện, thị tập trung cải cách thủ tục hành chính tất cả ngành, lĩnh vực: cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận đăng ký DN, thuế... Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính, như hệ thống một cửa điện tử đã triển khai ở nhiều sở, ban, ngành, huyện, thị từng bước đơn giản hóa thủ tục hành chính dễ hiểu, dễ thực hiện. Tổ chức đối thoại với cộng đồng DN, báo chí để kịp thời nắm bắt và tháo gỡ khó khăn cho DN.
Đóng hàng ván ép tại Nhà máy chế biến gỗ MDF VRG Dongwha (Khu công nghiệp Minh Hưng III) để xuất khẩu
Ngành chức năng rà soát, hoàn thiện quy trình thủ tục đầu tư và đăng ký DN theo Luật DN, Luật Đầu tư năm 2014 và các văn bản pháp lý liên quan. Đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn thời gian thành lập DN; ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký DN; tuyên truyền, phổ biến chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư. Đẩy nhanh phối hợp thực hiện một cửa liên thông giữa các sở, ban, ngành liên quan trong giải quyết thủ tục hành chính đối với các dự án đầu tư ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
| Phấn đấu đến năm 2020, toàn tỉnh có trên 6.500 DN hoạt động. Kim ngạch xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD, tổng mức bán lẻ hàng hóa khoảng 80 ngàn tỷ đồng. Tạo thêm việc làm cho 6.000-7.000 lao động hằng năm, 50 ngàn lượt lao động được hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao kỹ thuật và kỹ năng quản lý DN. Trên 1.000 lượt DN hưởng lợi từ các chính sách, chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực hằng năm. Mỗi năm có trên 1.000 DN được tham gia chương trình xúc tiến thương mại trong nước. Khái toán kinh phí thực hiện chương trình phát triển DN tỉnh 60,8 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương 25,7 tỷ đồng, ngân sách địa phương 25,1 tỷ đồng, vốn của DN 10 tỷ đồng. |
Khuyến khích DN tăng cường xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ thông qua hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, tham gia hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm chủ lực của tỉnh. Hỗ trợ DN đẩy mạnh xây dựng thương hiệu sản phẩm, thương hiệu DN và chỉ dẫn địa lý nhằm nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm dịch vụ. Hỗ trợ DN tham gia các đề án khuyến công quốc gia và địa phương, đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” một cách thiết thực. Tập trung đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hỗ trợ, chuyển giao công nghệ trong DN để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Hỗ trợ DN áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, xây dựng thương hiệu, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, cấp chứng chỉ chất lượng sản phẩm, chứng chỉ quy trình sản xuất thân thiện với môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Phát triển kết cấu hạ tầng, tạo mặt bằng sản xuất - kinh doanh cho DN là yếu tố vô cùng quan trọng đối với việc “hút” và “giữ chân” DN. Vì thế, tỉnh công khai các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, sử dụng đất, quỹ đất còn chưa sử dụng, giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch, mặt bằng sản xuất cho DN, đảm bảo việc giao đất, cho thuê đất, các dự án, công trình đầu tư tại địa phương. Phát triển kết cấu hạ tầng đối với các khu, cụm công nghiệp theo hướng đồng bộ điện, nước, xử lý chất thải, thông tin liên lạc, dịch vụ, phục vụ và hỗ trợ tốt nhất cho DN sản xuất - kinh doanh.
Nguồn lao động vẫn là vấn đề mà tỉnh luôn chú trọng và đã từng bước tháo gỡ cho DN. Thời gian tới, ngành chức năng sẽ khảo sát chất lượng nhằm đánh giá đúng nhu cầu đào tạo nghề hoặc chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động. Hỗ trợ phát triển thị trường lao động, tư vấn, giới thiệu việc làm, góp phần tích cực kết nối cung - cầu lao động. Tăng cường quản lý hoạt động liên kết đào tạo, đa dạng hóa ngành nghề đào tạo, nhất là ngành nghề mới theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ngoài ra, các chính sách về thuế, hỗ trợ DN tiếp cận vốn, thông tin, môi trường pháp lý kinh doanh, phát triển nguồn nhân lực... sẽ tiếp tục được rà soát, đổi mới quy trình theo hướng đơn giản hóa thủ tục, bảo đảm điều kiện tốt nhất cho DN hoạt động hiệu quả.
Hải Châu

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026