Thứ 6, 07/11/2025 03:44:30 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Kinh tế 07:22, 14/03/2015 GMT+7

Tái cơ cấu để tồn tại và phát triển ngành cao su

Thứ 7, 14/03/2015 | 07:22:00 195 lượt xem

Những con số không vui

BP - Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, khối lượng xuất khẩu (XK) cao su năm 2014 của cả nước đạt 1.07 triệu tấn, với kim ngạch đạt 1.8 tỷ USD, tăng 0,2% về khối lượng nhưng lại giảm tới 27,7% về giá trị so với năm 2013. Giá cao su XK bình quân trong năm 2014 của nước ta chỉ còn 1.695 USD/tấn, giảm 27,33% so với năm trước và chỉ bằng 45% so với mức giá 3.750 USD/tấn đạt được vào tháng 2-2012.

Năm 2013, cao su Việt Nam gặp bất lợi về giá, nhưng XK cao su vẫn đứng trong Top 3 mặt hàng đạt kim ngạch cao nhất trong nhóm hàng nông sản (chỉ sau gạo và cà phê). Nhưng bước sang năm 2014, kim ngạch XK cao su thấp hơn cả mặt hàng điều và đã lùi xuống vị trí thứ 4 trong nhóm hàng nông sản. Năm 2014, mặt hàng cao su Việt Nam XK gặp khó khăn vì hàng loạt “ông lớn” như Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore... đột ngột giảm mua. Mặc dù Trung Quốc và Malaysia vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất Việt Nam với thị phần lần lượt là 42,6% và 18,14%, nhưng lại có xu hướng giảm liên tục. Trung Quốc 5,02% về khối lượng và 30,26% về kim ngạch; Malaysia giảm 7,85% về khối lượng và giảm 36,96% về kim ngạch. Tiếp sau là Ấn Độ (thị trường lớn thứ 3), kim ngạch giảm còn 27,57%. Đáng chú ý, Phần Lan, Singapore và Mexico, kim ngạch nhập khẩu cao su giảm lớn, lần lượt giảm 71,76%, 68,51% và 51,59%.


Công nhân Nông trường cao su Thọ Sơn và Công ty cao su Phú Riềng thu gom mủ - Ảnh:  B.L

Thị trường XK cao su của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã lâm vào cảnh suy thoái suốt 3 năm qua, nhưng năm 2014 mới là năm bi đát nhất, vì khi kim ngạch chỉ còn 1.8 tỷ USD, chỉ bằng hơn một nửa so với con số kỷ lục là 3.2 tỷ USD của năm 2011. Nhiều chuyên gia quốc tế và trong nước đã đưa ra dự báo rằng, thị trường cao su sẽ còn trì trệ tới năm 2018. Và nếu như dự báo này đúng thì đây là thời kỳ suy thoái kéo dài nhất đối với ngành cao su.

 Nguyên nhân của nguyên nhân

Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, giá cao su thiên nhiên giảm mạnh trên toàn cầu do nguồn cung dư thừa và triển vọng nhu cầu yếu ở những thị trường chủ chốt như Trung Quốc. Bên cạnh đó, việc giá dầu thô sụt giảm cũng khiến cao su tổng hợp trở nên hấp dẫn các khách hàng châu Âu nên đã gây nhiều bất lợi cho thị trường cao su thiên nhiên. Và với diễn biến giá dầu như hiện nay, các chuyên gia kinh tế trong nước và thế giới lo ngại rằng, thị trường cao su sẽ còn trì trệ cho tới năm 2018. Và từ nay đến 2018, giá cao su thiên nhiên sẽ chỉ ở mức khoảng 1.5 USD/kg.

Trên đây là nguyên nhân khách quan, còn nguyên nhân chủ quan làm cho thị trường XK cao su Việt Nam lao đao là vì những sai lầm trong chiến lược phát triển và quản lý chất lượng. và chính vì diện tích trồng cao su tăng ồ ạt trong 10 năm trở lại đây đã dẫn đến tình trạng sản lượng dư thừa, sản phẩm tiêu thụ không hết. Theo số liệu thống kê của Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho thấy, tính đến nay, cả nước đã có hơn 955.700 ha cao su, trong khi quy hoạch của Chính phủ đến năm 2020 là 800.000 ha.

Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chưa có quy chuẩn quốc gia cho ngành cao su, do đó chưa có cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra của các nhà máy chế biến mủ cao su. Điều này đã dẫn đến chất lượng cao su XK của Việt Nam không ổn định, thậm chí còn bị khách hàng ép và đây là nguyên nhân khiến giá cao su XK của Việt Nam thường thấp hơn sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Malaysia và cả Indonesia.

Tái cơ cấu để tồn tại

Trước thực trạng trên và không phải đến bây giờ mà đã từ hơn một năm nay, vấn đề tái cơ cấu ngành cao su đã được đặt ra. Cục Trồng trọt khuyến cáo, không trồng mới cao su đối với những vườn cao su già cỗi và ở những vùng đất không thích hợp. Còn theo dự báo của Tổ chức Nghiên cứu cao su quốc tế (IRSG), đến năm 2020, tổng nhu cầu tiêu thụ cao su thế giới vào khoảng 15 triệu tấn; trong đó có khoảng 72% dùng để sản xuất lốp xe các loại. Nhưng hiện nay, Việt Nam lại đang có thế mạnh về sản xuất cao su chủng loại SVR 3L, trong khi nhu cầu tiêu thụ SVR 3L đến năm 2020 của thế giới chỉ vào khoảng 150.000 tấn, tức chỉ bằng 1/3 sản lượng hiện nay của Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc nếu chúng ta vẫn tiếp tục sản xuất cao su loại SVR 3L thì sẽ dư thừa khoảng 300.000 tấn và cũng khiến cho giá XK mặt hàng này ngày càng giảm.

Bởi vậy, việc làm cấp thiết hiện nay là phải cơ cấu lại chủng loại mủ cao su sơ chế, giảm sản lượng SVR, tăng các loại mủ sơ chế khác như SVR CV 50, SVR CV 60... Hiện mỗi năm Việt Nam sản xuất cả triệu tấn mủ cao su, nhưng lượng hàng dùng để chế biến sản phẩm cao su công nghệp trong nước chỉ chiếm khoảng 16-18% tổng sản lượng; trên 80% còn lại là XK thô nên giá trị thấp. Vì vậy, Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam và các đơn vị thành viên cần phải tính toán lại cơ cấu sản phẩm theo hướng chế biến sâu.

Để thực hiện chủ trương phát triển ngành cao su bền vững, Bộ NN&PTNT đã đề ra những giải pháp cụ thể là: Phát triển chế biến sản phẩm công nghiệp; giải pháp về thuế, thị trường... Trong đó, bộ sẽ trình Chính phủ chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu đối với những nguyên liệu, máy móc, thiết bị chưa sản xuất được trong nước nhằm phục vụ chế biến sâu sản phẩm cao su; ưu đãi thuế đối với các sản phẩm cao su thiên nhiên sơ chế sử dụng chế biến cao su công nghiệp trong nước; tiếp tục duy trì chương trình kích cầu, hỗ trợ lãi suất, giảm thuế thu nhập tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến cao su công nghiệp được tiếp cận nguồn vốn vay; tăng cường xúc tiến thương mại và ban hành các chính sách đặc thù để thu hút đối tác nước ngoài đến liên doanh, liên kết chế biến mủ cao su.      

N.V

 

 

  • Từ khóa
38332

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu
Năm 2023 Bình Phước đứng thứ bao nhiêu xếp hạng chuyển đổi số cấp tỉnh, thành cả nước?