PGS. TS Doãn Minh Chung, Viện trưởng Viện Công nghệ vũ trụ
Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ nhân kỷ niệm 35 năm ngày thực hiện chuyến bay vũ trụ Liên Xô-Việt Nam (23-7-1980), PGS. TS Doãn Minh Chung, Viện trưởng Viện Công nghệ vũ trụ Việt Nam đã cung cấp nhiều thông tin về câu chuyện từng bước làm chủ công nghệ vũ trụ của Việt Nam.
PGS. TS Doãn Minh Chung khẳng định, trong thế kỷ 21, chinh phục vũ trụ sẽ là một trong những mục tiêu khoa học mũi nhọn của cộng đồng các nhà khoa học toàn cầu. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Và sau 9 năm thành lập, Viện Công nghệ vũ trụ đã đặt nền móng cho nền công nghiệp vũ trụ còn rất non trẻ ở Việt Nam.
| Viện Công nghệ vũ trụ Việt Nam được thành lập ngày 20-11-2006, là Viện nghiên cứu đầu ngành về công nghệ vũ trụ của Nhà nước trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Sự kiện thành lập Viện là bước ngoặt lớn trong lĩnh vực khoa học công nghệ vũ trụ của Việt Nam. |
Định hướng hoạt động của Viện đến năm 2020 sẽ làm chủ công nghệ vệ tinh nhỏ quan sát Trái đất, khai thác các dịch vụ gia tăng về ứng dụng dữ liệu vệ tinh; đưa ứng dụng công nghệ vào phục vụ rộng rãi và thường xuyên các nhu cầu kinh tế-xã hội trong sản xuất, dịch vụ, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng… đạt tầm cỡ trung bình khá khu vực.
Đến năm 2030 sẽ tự thiết kế và chế tạo vệ tinh nhỏ quan sát Trái đất, góp phần đưa công nghệ vũ trụ trở thành ngành công nghiệp quan trọng của nước nhà, đưa trình độ khoa học-công nghệ về vũ trụ của Việt Nam đạt tầm cỡ ngang các Viện nghiên cứu hàng đầu về công nghệ vũ trụ của các nước châu Á và khu vực.
Trong 9 năm qua, Viện Công nghệ vũ trụ đã thực hiện nhiều đề tài, hợp đồng triển khai ứng dụng viễn thám và tư liệu ảnh vệ tinh về các vấn đề cấp thiết, như nghiên cứu nguy cơ trượt lở tuyến đường Hồ Chí Minh, thành lập các bản đồ hiện trạng và biến động lớp phủ rừng, các bản đồ tổng hợp quản lý lãnh thổ theo hướng giảm thiểu xói lở, đánh giá môi trường sinh thái do các công trình xây dựng gây ra, bản đồ ngập lụt và nguy cơ lũ quét, nghiên cứu môi trường biển, thành lập bản đồ nhiệt độ bề mặt lãnh thổ Việt Nam... Ứng dụng viễn thám và ảnh vệ tinh giám sát tình tạng đô thị hóa ở các thành phố công nghiệp, tình trạng ngập lụt của ĐBSCL, giám sát biên giới, hải đảo…
Từ những năm 2000 đến nay, Viện đã đi sâu nghiên cứu chế tạo các hệ phổ kế SCT băng L,C,X phục vụ các nghiên cứu giám sát các thông số môi trường như độ ẩm đất, sinh khối lớp phủ thực vât, nhiệt độ và độ mặn nước biển, thực hiện nhiều chuyến bay thực nghiệm viễn thám hàng không đo và thành lập bản đồ độ ẩm đất.
Ngoài các đề tài nghiên cứu cấp bộ, cấp Nhà nước, Viện còn thực hiện nhiều hợp đồng ứng dụng triển khai với các cơ quan nghiên cứu, quản lý trong và ngoài nước. Ví dụ, Viện đã thực hiện hợp đồng với Cơ quan phát triển GTZ của CHLB Đức về quản lý rừng các tỉnh Sơn La, Hòa Bình bằng công nghệ viễn thám. Hợp tác với Tổ chức Phát triển Hà Lan về đánh giá hiện trạng và biến đổi diện tích rừng ngập mặn tỉnh Cà Mau.
Mở rộng hợp tác với các siêu cường
Đa dạng hoá các hình thức hợp tác về khoa học-công nghệ và đào tạo nhân lực là một trong những hướng phát triển mà Viện nhắm tới. Viện đã chủ động mở rộng hợp tác với các cơ quan vũ trụ quốc tế như ESA, NASA, JAXA, ISRO, ROSCOSMOS, UNOOSA, UNESCAP…
Quan hệ hợp tác quốc tế còn được thực hiện thông qua việc Viện trở thành thành viên của các tổ chức như APRSAF, các tổ chức giáo dục vũ trụ của APRSAF… Viện đã hợp tác tổ chức cho học sinh phổ thông các hoạt động khám phá tên lửa nước, vẽ tranh vũ trụ… nhằm khích lệ lòng say mê khám phá vũ trụ, yêu khoa học của các em, tạo ra nguồn nhân lực tương lai cho nền khoa học-công nghệ vũ trụ.
Trên thế giới chỉ có một vài quốc gia, vùng lãnh thổ có đủ khả năng chuyển giao công nghệ vũ trụ. Có thể kể tên là Mỹ, Nga, Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, không phải nước nào cũng sẵn sàng đầu tư công nghệ cao ra nước ngoài. Nhật Bản là đối tác chiến lược của Việt Nam, hai nước lại chịu ảnh hưởng rất nặng nề của thảm họa thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, do vậy hai bên đã dễ dàng tìm được tiếng nói chung. Dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam có thể nói là một bước ngoặt trong việc đầu tư các dự án ODA đối với cả Nhật Bản và Việt Nam.
Trong hợp tác với JAXA (Nhật Bản), Viện đã tham gia Dự án SAFE - Ứng dụng CNVT giám sát môi trường, Chương trình vệ tinh khu vực châu Á-Thái Bình Dương (STAR Prog).
Với đối tác từ Singapore, Viện hợp tác với Công ty EADS-Innovatives Singapore trong đào tạo nhân lực, ứng dụng viễn thám nghiên cứu sinh khối thực vật và trượt lở đất ở Việt Nam. Tham gia Dự án Vệ tinh nhỏ Việt Nam giám sát tài nguyên thiên môi trường và thiên tai - VNREDSat-1, tham gia các Hội thảo quốc tế và khu vực, từ đó mở ra những cơ hội trao đổi, chia sẻ thông tin.
Tốn kém cũng phải làm
Kể từ khi vệ tinh nhân tạo đầu tiên Sputnik 1 của Liên bang Xô Viết được tên lửa R-7 mang vào không gian ngày 4/10/1957, đến nay đã có hàng vạn vệ tinh được phóng lên tạo thành một "tấm thảm" vệ tinh bao quanh Trái đất. Không chỉ những quốc gia đi đầu trong chinh phục vũ trụ như Mỹ, Nga, Nhật Bản, các nước châu Âu, những nước mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ cũng đang chạy đua cùng công nghệ để được làm chủ khoảng không.
Chinh phục vũ trụ là lĩnh vực khai phá tốn kém nhất trong các lĩnh vực công nghệ. Cần phải có những công nghệ tối tân nhất để vượt ra khỏi những giới hạn ở mặt đất.

Mốc đầu tiên đánh dấu tiến trình chinh phục vũ trụ của Việt Nam chính là chúng ta đã chi 300 triệu USD để sở hữu VINASAT-1. Đây là vệ tinh viễn thông đầu tiên của Việt Nam. Trước đó, chúng ta đã đàm phán mới 27 quốc gia, vùng lãnh thổ để có được vị trí 132 độ Đông trên quỹ đạo địa tĩnh. Việc phóng VINASAT-1 thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết định đúng đắn của Chính phủ Việt Nam khi chỉ sau 4 năm đi vào hoạt động, công suất của vệ tinh đã được khai thác tối đa với hơn 90% dung lượng VINASAT-1 được sử dụng và đang đảm bảo cung cấp các dịch vụ truyền hình, truyền dữ liệu, truyền dẫn, thoại và Internet… Thực tế cho thấy VINASAT-1 dường như vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng cao. Do đó, Chính phủ đã quyết định đầu tư cho việc phóng VINASAT-2 được thiết kế trên nền tảng khung A2100 với công nghệ hiện đại, có tuổi thọ thiết kế là 15 năm và hoạt động ở 131,8 độ Đông trên quỹ đạo địa tĩnh.
Như vậy, Việt Nam hiện đang sở hữu 2 vệ tinh viễn thông, thường được ví như hai ngôi sao của Việt Nam trên bầu trời.
Với Việt Nam, những lợi ích của việc phát triển công nghệ vũ trụ là rõ ràng. Tuy nhiên, theo PGS.TS. Doãn Minh Chung, chinh phục vũ trụ là một chặng đường dài, phải có sự chuẩn bị và khởi động chắc chắn cũng như chiến lược đầu tư lâu dài, trong đó con người là yếu tố quan trọng. Vì vậy cùng với quyết tâm của các nhà quản lý và lãnh đạo, sự nỗ lực của các nhà khoa học trong nước, chúng ta cần kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học nước ngoài, đặc biệt là đội ngũ các nhà khoa học Việt kiều, bởi hiện tại đang có nhiều người Việt công tác tại những trung tâm nghiên cứu vũ trụ lớn của thế giới như Phòng thí nghiệm Phản lực JPL (NASA), Trung tâm Vũ trụ châu Âu (ESO)…
Nguồn Chinhphu.vn

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026