Về thời hiệu xử lý kỷ luật, tại Điều 80 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 được sửa đổi bởi khoản 16 Điều 1 Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi năm 2019 như sau: Thời hiệu xử lý kỷ luật là thời hạn mà khi hết thời hạn đó thì cán bộ, công chức có hành vi vi phạm không bị xử lý kỷ luật. Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm có hành vi vi phạm. Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010, thời hiệu kỷ luật hành chính với cán bộ, công chức, viên chức là 24 tháng, kể từ thời điểm có hành vi vi phạm.
Vì thời hạn theo quy định nêu trên quá ngắn nên trong thực tế đã có nhiều trường hợp vi phạm nhưng không thể xử lý kỷ luật, vì khi phát hiện đã hết thời hiệu. Do đó, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 đã quy định lại về thời hiệu xử lý kỷ luật. Theo đó, thời hiệu đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm ít nghiêm trọng đến mức phải xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách là 2 năm; hành vi vi phạm không thuộc trường hợp quy định kể trên là 5 năm. Tuy nhiên, hiện quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật hành chính đối với đảng viên lại có sự khác nhau.
Cụ thể, tại điểm b khoản 2 Điều 4 trong Quy định 69-QĐ/TW năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương có quy định về thời hiệu kỷ luật đảng viên vi phạm như sau: 5 năm (60 tháng) đối với vi phạm đến mức phải áp dụng hình thức khiển trách. 10 năm (120 tháng) đối với vi phạm đến mức phải áp dụng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức. Như vậy, cũng là hành vi vi phạm phải kỷ luật bằng hình thức khiển trách, nhưng thời hiệu kỷ luật đảng là 5 năm, còn thời hiệu xử lý kỷ luật hành chính là 2 năm. Đối với hành vi vi phạm phải kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo, thời hiệu kỷ luật đảng là 10 năm, nhưng thời hiệu xử lý kỷ luật hành chính là 5 năm.
Chính vì có sự khác nhau như nêu trên nên trong thực tế phát sinh một số trường hợp đã bị kỷ luật đảng, nhưng khi xem xét xử lý kỷ luật hành chính thì các cơ quan kiến nghị không xử lý kỷ luật do đã hết thời hiệu theo quy định của luật. Và điều này làm ảnh hưởng đến chủ trương xử lý kỷ luật nghiêm, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Hơn nữa, tại khoản 10 Điều 2 Quy định số 69-QĐ/TW nêu rõ: Kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử phạt của pháp luật. Đảng viên bị kỷ luật về đảng thì cấp ủy quản lý đảng viên đó phải kịp thời chỉ đạo hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền kỷ luật về hành chính, đoàn thể…
Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là cơ quan có thẩm quyền cần sớm tham mưu để Quốc hội sửa đổi các quy định có liên quan của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Vì tăng thời hiệu xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức sẽ giúp hạn chế bỏ lọt các vi phạm vì lý do hết thời hiệu. Ngoài ra, với thời hiệu đề xuất là 10 năm khiến cán bộ, công chức, viên chức có ý định vi phạm không những lo ngại mà còn có trách nhiệm hơn trong thực hiện công việc và có ý thức tuân thủ kỷ luật hơn.
