>> Bài 1 - Khúc tráng ca bất tử
>> Bài 2 - Qua vùng "nắng lửa"
>> Bài 3 -Trái tim của Đoàn 559
>> Bài 4 - Huyền thoại dòng sông Son
>> Bài 5 - Đến với Điện Biên Phủ thứ hai
>> Bài 6 - Nghĩa trang Trường Sơn chiều nghiêng nắng
>> Bài 7 - Khởi sắc vùng chảo lửa
>> Bài 8 - Ngỡ ngàng mây núi Trường Sơn
>> Bài 9 - Trường Sơn chuyển mình
>> Bài 10 - Chư Pao - một tấc khăn tang, một tấc đường
BP - Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dân tộc ta đã lập nên một kỳ tích góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước, đó là xây dựng được hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại. Con đường này được các chuyên gia nghiên cứu quân sự thế giới đánh giá là một công trình quân sự vĩ đại vào bậc nhất của nhân loại trong thế kỷ XX. Ngày nay, con đường huyền thoại năm xưa đã gánh vác thêm một trọng trách mới, trọng trách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phóng viên Báo Bình Phước đã có dịp đi và viết về một thời máu và hoa của cả dân tộc cùng nhau ra trận và những đổi thay trên con đường huyền thoại này…
Bộ đội Trường Sơn mở đường mòn Hồ Chí Minh - Ảnh: Tư liệu
QUA MIỀN CỔ TÍCH
Trưa vừa tròn bóng nắng, chúng tôi rời Gia Lai để qua miền cổ tích trên cao nguyên lộng gió. Cầu 110 hiện ra trên đường Hồ Chí Minh như báo cho chúng tôi biết đã đến địa phận tỉnh Đắk Lắk. Nằm ở trung tâm của Tây Nguyên, Đắk Lắk không chỉ có những danh lam thắng cảnh đẹp, con người cần cù, chất phác và những sản vật quý hiếm mà còn nổi tiếng về trường ca, sử thi của đồng bào Êđê, Mơnông… Cũng chính miền đất này cách đây hơn 40 năm, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chọn làm vị trí nổ phát súng đầu tiên trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đi tới thống nhất nước nhà.
TRÊN MIỀN SỬ THI
Nằm ở độ cao trung bình 500-800m so với mặt nước biển, Đắk Lắk có khí hậu mang đặc trưng của vùng Trường Sơn Đông nên chia thành hai mùa mưa - nắng rõ rệt. Đắk Lắk có diện tích hơn 13.100km2, với số dân khoảng 1,8 triệu người. Thành phố Buôn Ma Thuột là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Lắk từ năm 1904 cho đến nay.
Từ xa xưa, Đắk Lắk nổi tiếng với những sản vật của núi rừng. Nhiều địa danh như Buôn Đôn, Lắk, Krông Ana... là những nơi săn bắt và thuần dưỡng voi rừng nổi tiếng. Là nơi cư trú lâu đời của đồng bào các dân tộc Êđê, Mơnông..., Đắk Lắk được biết đến với kho sử thi Trường ca Đăm San, Dăm Di, Cây nêu thần... Những trường ca này là lịch sử bằng thơ kể về sự hình thành trời đất, con người, cây cỏ mang yếu tố thần thoại và quá trình hình thành, phát triển xã hội, phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số trên đất Tây Nguyên. Vùng đất này còn được biết đến với không gian văn hóa cồng chiêng cùng dụng cụ nhạc dân tộc, lễ hội độc đáo, hấp dẫn của vùng đất Tây Nguyên. Với vị trí địa lý đặc biệt, Đắk Lắk có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng chiến lược về an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế - xã hội. Ngay từ thời nhà Nguyễn, vua Bảo Đại cho xây nhiều biệt điện để mỗi lần ông tuần du lên đây nghỉ dưỡng. Sau khi thiết lập được ách thống trị lên Tây Nguyên, người Pháp cũng chọn Buôn Ma Thuột làm thủ phủ xứ cao nguyên.
Tái hiện cảnh tù nhân luôn bị đánh đập đến chết tại nhà đày
Đắk Lắk hiện có ba tuyến quốc lộ đi qua và 14 tỉnh lộ, một sân bay nối liền vùng miền với nhau tạo thuận lợi trong thông thương. Riêng quốc lộ 14, đường Hồ Chí Minh ngày nay dài hơn 120km xuyên suốt Đắk Lắk là động lực quan trọng để tỉnh này vươn lên trong hội nhập kinh tế.
CHUYỆN CỔ VỀ MỘT VÙNG ĐẤT
Ông Lê Quý Phóng, nguyên cán bộ văn phòng Tỉnh ủy Đắk Lắk đã nghỉ hưu, trú tại số nhà 104 Mai Hắc Đế kể: “Đất Buôn Ma Thuột là nơi sản sinh ra nhiều huyền thoại. Có những huyền thoại đi vào kỳ tích của dân tộc ta trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chinh phục tự nhiên và đi vào văn học nước nhà như những bản hùng văn bất hủ...”.
Theo lời ông Phóng, Buôn Ma Thuột là một làng (buôn) cổ của đồng bào Êđê. Theo truyền thuyết, làng này do cha của ông Thuột làm tù trưởng, là một trong những buôn làng trù phú nhất Tây Nguyên. Theo tín ngưỡng sinh hoạt của đồng bào Êđê, đàn ông mang họ Y, phụ nữ mang họ Hơ. Khi người đàn ông Êđê có con trai thì được gọi là Ama, tức là cha. Buôn làng này của cha ông Thuột nên mới có tên gọi là Buôn Ma Thuột. Tên này có từ bao giờ ông Phóng cũng không biết, mà chỉ nghe kể lại. Ông Phóng cho hay, thời phong kiến, tỉnh lị Đắk Lắk trước đặt tại Buôn Đôn, cách Buôn Ma Thuột hơn 60km về phía Tây Bắc. Sau khi đánh chiếm xong Tây Nguyên và mưu đồ mở đường 14, thực dân Pháp đã xây dựng Buôn Ma Thuột thành trung tâm tỉnh lỵ của Đắk Lắk và thủ phủ của vùng Tây Nguyên rộng lớn. Đến năm 1930, Khâm sứ Trung kỳ ra nghị định thành lập thị xã Buôn Ma Thuột. Thời Mỹ - ngụy gọi là Ban Mê Thuật (do sự đọc chệch âm của vần Uôn và Uôt).
Để tăng cường sự đàn áp các cuộc khởi nghĩa của đồng bào Êđê, Mơnông thực dân Pháp đã cho xây dựng nhà đày Buôn Ma Thuột để giam cầm các chiến sĩ yêu nước và tù khổ sai khi mở đường 14 qua Tây Nguyên. Đến thời Mỹ - ngụy, nhà đày này được gọi là Trung tâm cải huấn chính trị quốc gia nhưng thực chất là địa ngục trần gian đày ải những người con trung kiên của đất nước...
ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Chị Nguyễn Thị Thu Hương, hướng dẫn viên tại nhà đày Buôn Ma Thuột cho biết: Năm 1900, Pháp xây dựng ở khu đất này một nhà lao để giam tù nhân chính trị và những ai chống đối lại chính sách đô hộ của Pháp. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào đấu tranh ngày một lan rộng. Để giam cầm tù nhân chính trị, Pháp liên tục mở rộng nhà tù. Nhiều nhà cách mạng yêu nước như Hồ Tùng Mậu, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... đều bị giam giữ ở đây”.
Toàn bộ nhà đày có 6 dãy phòng giam (từ lao 1-6), một dãy xà lim. Mỗi nhà dài khoảng 30m, rộng 6,5m, trên tường có cửa sổ nhỏ để ánh sáng chiếu vào, trên trần nhà có chăng dây thép gai. Các nhà lao nối liền bằng một phòng tra tấn ở giữa. Riêng dãy xà lim có 21 phòng, mỗi phòng rộng 1m, dài 2,5m làm nơi giam giữ những tù nhân mà Pháp cho là nguy hiểm và cứng đầu nhất. Tù nhân ở xà lim luôn phải đeo gông, cùm chân và thường xuyên bị lính giám sát qua khe nhỏ. Ở sân nhà đày có 2 khối xi măng nặng cả tạ dùng để xích chân tù nhân khi đem ra phơi nắng. Năm 2009, Viện lịch sử Đảng, Học viện Chính trị hành chính quốc gia đã thống kê từ năm 1930-1945, nhà đày Buôn Ma Thuột đã giam giữ 1.328 tù chính trị. Sau năm 1954, ngụy quyền Sài Gòn đã mở rộng thêm diện tích lao tù, trong đó có thêm buồng giam cầm các nữ chiến sĩ cách mạng.
Tại phòng truyền thống của nhà đày, nhiều hình ảnh tư liệu về cảnh tra tấn dã man của bọn cai ngục đối với tù nhân là minh chứng cho sự tàn ác ở chốn địa ngục trần gian này. Đặc biệt, nơi đây còn lưu giữ câu nói của Mahomed Moshine, quản ngục nhà đày: “Ngày nào không đánh đập được tù, không thấy máu tù chảy, không giết được tù thì tối về ăn cơm không ngon...”. Nhà đày Buôn Ma Thuột được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1990. Hiện nhà đày Buôn Ma Thuột được tôn tạo nguyên trạng và là nơi giáo dục truyền thống.
Tấn Phong - Nhất Sơn