Nguyệt Lãng tên khai sinh là Nguyễn Văn Thẩm. Anh sinh tại Bến Tre và lập nghiệp tại Bình Phước. Anh là hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Bình Phước và là người cộng tác nhiều năm ở Báo Bình Phước. Sau hai năm chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ngày 1-1-2014, nhà thơ Nguyệt Lãng đã ra đi để lại nỗi tiếc thương trong lòng bè bạn và những ai biết đến thơ anh.
Nguyệt Lãng nổi danh với bài thơ “Rau đắng đất” sáng tác năm 1972 và được nhạc sĩ Bắc Sơn phổ nhạc. Sáng tác của anh đi sâu vào thân phận con người với phong cách chân thực, gần gũi, đồng cảm với vùng quê hương sông nước miền Tây Nam bộ, được bạn đọc yêu thích, mến mộ.
Tuổi thơ của Nguyệt Lãng gắn với vùng sông nước Bến Tre: “Tuổi thơ đi với bông bần/ Ước mơ tôi thả trắng ngần bến sông”. Cái nghiệp văn chương đã sớm kéo bước chân Nguyệt Lãng phiêu bồng qua các miền quê. Anh đem theo khát vọng muốn thoát ra khỏi cuộc sống tù túng. Cái khát vọng có chút phiêu lãng giang hồ.
Cái sâu lắng của Nguyệt Lãng là thấu hiểu được khát vọng trong con người sống giữa sự tù túng. Đọc bài “Quê nghèo”, tôi lại liên tưởng đến “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là thân phận người nông dân nơi chốn bùn lầy nước đọng vẫn hằng khao khát một cuộc đổi đời.
Nói đến quê hương là nói đến mẹ. Mẹ là hình ảnh hiển hiện trong tâm trí người đi xa. Người mẹ của Nguyệt Lãng cũng như bao thân phận của người phụ nữ nông thôn trên đồng đất miền Tây. Họ phó mặc duyên phận may rủi. Thân phận họ khác nào giọt mưa. Từ giọt “mưa sa” trong ca dao đến giọt “mưa rụng” xuống “ao làng” của Nguyệt Lãng cho ta thấy nỗi buồn về số phận người phụ nữ vẫn xuyên suốt qua mấy thế kỷ.
Người mẹ của Nguyệt Lãng trên cánh đồng miền Tây hun hút mênh mang ấy vẫn ôm ấp những kỷ niệm về tình yêu. Nguyệt Lãng đã lách vào nỗi niềm nhạy cảm nhất của người mẹ. Mẹ cũng như bao phụ nữ khác, cũng có quyền được giữ riêng cho mình những kỷ niệm về tình yêu của một thời con gái. Có lẽ chỉ ở vùng đất nơi có điệu hò phương Nam mới có cái nhìn thoáng như vậy. Cái nhìn ấy lại được đưa vào văn chương, nó vượt qua rào cản và ảnh hưởng của hàng ngàn năm phong kiến.
Nguyệt Lãng còn viết về người chị mười sáu tuổi như cây cải “trổ ngồng”. Cha mẹ vội gả chồng nơi xa xứ. Còn chị thì “Như đọt mướp bỏ vòi bám giữ/ Câu ví dầu... đừng gả con xa”. Cái hình ảnh người chị còn non như cái “vòi mướp” quấn lấy cha mẹ. Và rồi cuối cùng cũng phải gỡ ra khỏi vòng tay cha mẹ để về nơi xứ người.
Hình ảnh người chị lại xuất hiện trong bài thơ “Rau đắng đất”. Bài thơ đã được âm nhạc chắp cánh và có sức lay động lan tỏa qua nhiều thập kỷ. “Nhìn quãng đồng xa một làn khói trắng/ Cũng bâng khuâng nhớ lắm quê mình/ Bỗng nghe thèm rau đắng nấu canh!”.
Đọc “Rau đắng đất” ta liên tưởng đến “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Hai bài thơ có sự gần gũi về giai điệu và cũng là lối thơ tự sự. Nhưng Nguyệt Lãng gắn câu chuyện của mình với những cuộc đời riêng, nỗi niềm riêng của người dân nơi vùng sông nước miền Tây Nam bộ.
Nguyệt Lãng còn nhiều bài thơ nói đến người đến cảnh ở vùng đất Bến Tre quê hương anh và rộng ra cả vùng Nam bộ. Thơ Nguyệt Lãng không kể lể, liệt kê. Anh cũng không làm cái việc ghi chép lại nét văn hóa, phong tục ở mỗi làng quê.
Mỗi bài thơ của Nguyệt Lãng đều chứa đựng một tâm trạng, một nỗi niềm và có khi là một kiếp đời. Nguyệt Lãng đã đi sâu vào thân phận con người với nỗi niềm day dứt trăn trở không nguôi.
Đóng góp của Nguyệt Lãng trong văn chương chính là việc anh đi sâu vào thân phận con người, chia sẻ nỗi đau và khát vọng của họ. Đặc biệt là thân phận người nông dân miền Tây sống giữa đồng đất mênh mang với những trận lũ tràn bờ, những cuộc đời lênh đênh như cánh bèo trôi. Nhưng trái tim thuần phác của họ luôn ấp ủ ước mơ, những hy vọng. Thơ Nguyệt Lãng đưa tới một thông điệp đó là tình yêu quê hương và thôi thúc chúng ta giải phóng con người khỏi cảnh đời tù túng.
Nguyệt Lãng đã ra đi! Bước chân “lãng tử” đã dừng! Những sáng tác của anh cũng không nhiều nhưng sâu sắc. Đặc biệt tác phẩm “Rau đắng đất” của anh vẫn còn xanh mãi trong lòng người dân đất Việt yêu nước, thương quê.
Xuân Nam