Với đặc thù của huyện vùng sâu, gồm 34 thành phần dân tộc thiểu số, lại có nhiều vùng căn cứ cách mạng nên từ lâu, huyện Bù Đăng đã nhận nhiều sự quan tâm của Đảng, chính quyền các cấp. Rất nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội đã dành cho Bù Đăng nhằm từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, nhất là vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện đời sống vật chất của đồng bào dân tộc thiểu số ở Bù Đăng đã được cải thiện nhiều so với thời điểm tái lập tỉnh. Nhưng đi liền với điều đó, nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc bản địa như Xêtiêng, Mơnông, Châu mạ đang dần bị mai một.

Đồng bào Xêtiêng biểu diễn cồng chiêng tại lễ hội văn hóa các dân tộc ở tỉnh Bình Phước - Ảnh: Tư liệu
Để lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào, UBND huyện có chế độ khuyến khích khôi phục các làng nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát, rèn, làm rượu cần ở các xã có đông đồng bào bản địa như: Đồng Nai, Thọ Sơn, Bom Bo, Đắk Nhau, Đoàn Kết và trường Dân tộc nội trú Điểu Ông. Các trường phổ thông trên địa bàn huyện cũng đã đưa nội dung giáo dục truyền thống văn hóa các dân tộc bản địa vào chương trình giảng dạy. Một số xã đã xây dựng được đội văn nghệ gồm các diễn viên là người dân tộc thiểu số. Hằng năm UBND huyện đều tổ chức Liên hoan văn hóa - thể thao các dân tộc thiểu số (cấp tỉnh 2 năm tổ chức một lần). Bù Đăng cũng là huyện duy nhất trong tỉnh thực hiện được chương trình phát thanh tiếng Xêtiêng trên sóng của đài truyền thanh huyện với thời lượng 3 kỳ/tuần. Đặc biệt, khu bảo tồn văn hóa dân tộc Xêtiêng sóc Bom Bo đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đầu tư với kinh phí 200 tỷ đồng và đang triển khai các hạng mục.
Dù đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc bản địa, nhưng điều đáng lo ngại là nhiều phong tục, tập quán mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của đồng bào đang dần mai một. Các lễ hội như: Đâm trâu, cầu mưa, cúng lúa mới, đặt tên... không còn được đồng bào tổ chức thường xuyên. Và do ngặt nghèo về kinh phí nên lâu lâu ngành văn hóa huyện mới đứng ra tổ chức được một lễ hội. Trong nhiều đám cưới, đám tang không còn tiếng cồng chiêng, phần do người dân đã bán mất; phần do không có người biết chơi và đặc biệt lớp trẻ người dân tộc bản địa bây giờ cũng muốn tổ chức đám cưới giống như người Kinh, cô dâu chú rể cũng mặc veston, xoa rê để chụp hình cho đẹp. Lớp nghệ nhân biết diễn xướng sử thi, dân ca hoặc đã mất, hoặc đã quá già yếu, trong khi lớp trẻ không mấy quan tâm...
Bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống của các dân tộc bản địa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập như hiện nay là việc làm không hề đơn giản. Không chỉ cần nguồn kinh phí không nhỏ, công việc đặc thù này còn đòi hỏi một đội ngũ cán bộ hiểu biết về văn hóa truyền thống của đồng bào và có niềm đam mê, gắn với trách nhiệm của những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Điều quan trọng nữa là phải tuyên truyền, khuyến khích để đồng bào bản địa tự hào với truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình, để có trách nhiệm trong việc bảo tồn và lưu giữ.
T.N

Câu lạc bộ thơ tỉnh Bình Phước phấn đấu có 5 tác phẩm phổ nhạc
Chủ tịch nước Lương Cường: Với bộ máy hành chính mới, Hà Nội cần tiên phong đổi mới tư duy quản lý
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân TPHCM và thông điệp gửi nhân dân cả nước
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Lễ công bố các nghị quyết, quyết định sáp nhập đơn vị hành chính
Sổ bảo hiểm xã hội điện tử được cấp chậm nhất là ngày 1-1-2026