(Tiếp theo và hết)
Anh là nhà chỉ huy quân sự có tài thao lược kiệt xuất, bậc thầy về chiến lược, nghệ thuật quân sự, nhất là đường lối chiến tranh nhân dân, với sự quyết đoán, sắc bén và có tư duy quân sự đặc biệt. Dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ của dân tộc Việt Nam đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự. Đường lối ưu việt của cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, kháng chiến trường kỳ đã đánh bại và làm phá sản hoàn toàn đường lối chiến tranh tổng lực, tốc chiến, tốc thắng và các chiến lược khác của những đế quốc hùng mạnh nhất ở thế kỷ XX. Những kiến thức và tài năng quân sự của anh đều do tự nghiên cứu từ lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam và lịch sử quân sự thế giới; tự rèn luyện, tự đúc kết kinh nghiệm qua thực tế chiến đấu của quân đội ta, được thế giới khâm phục, suy tôn là một trong những danh tướng trong lịch sử nhân loại.
Anh là vị tướng tài ba, người cầm quân rất cẩn trọng, luôn chủ động buộc đối phương phải đánh theo cách đánh của ta, dẫn đến thắng lợi hoàn toàn. Điển hình là quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ - quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của Đại tướng nhưng hoàn toàn đúng đắn, góp phần giảm thiểu hy sinh xương máu của bộ đội, của nhân dân. Anh cũng chính là người đã phê chuẩn đề nghị thành lập cánh quân phía Đông và ra mệnh lệnh “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa”, đưa toàn quân xốc tới, mãnh liệt tiến công vào sào huyệt cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Anh hết sức coi trọng việc xây dựng tổ chức Đảng “trong sạch, vững mạnh” trong lực lượng vũ trang; quan tâm, chăm lo xây dựng bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu, chiến thuật quân sự, khả năng tác chiến; giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” cho cán bộ, chiến sĩ. Anh góp phần làm nên những chiến thắng vĩ đại, hòa vào dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc; trở thành một vị tướng huyền thoại, một thiên tài quân sự... và được sự ngưỡng mộ, kính trọng của nhiều nguyên thủ quốc gia, chính khách, học giả, nhà sử học, nhà báo, nhà văn và đông đảo nhân dân thế giới.
Sinh thời, ngay từ năm 1946, Đô đốc Hải quân Barjot, tác giả bản “Thông báo nghiên cứu số 46” (mật) của Ban tham mưu, Bộ Quốc phòng Pháp (ngày 8-12-1946) đã đánh giá: “Những cố gắng phi thường và cái tài của ông Giáp chỉ trong vòng một năm thôi mà đã thành công trong việc xây dựng một công cụ có khả năng làm chỗ dựa vững vàng cho một chính sách không nhân nhượng chút nào đối với nước Pháp”. Sống sót sau trận Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, Trung tá Marcel Bigeard (sau này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp) rút ra nguyên nhân thất bại của quân Pháp: “Những con người do tướng Giáp đào luyện thật là những chiến binh tuyệt vời! Những cuộc phản kích của quân Việt chặn đứng pháo binh của chúng tôi, các khẩu súng cối của chúng tôi không thể nhả đạn”. Và, tướng Peter Macdonald, nhà sử học Quân đội Hoàng gia Anh đánh giá về Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Ông là vị tướng lĩnh duy nhất đã phát động cuộc chiến chống kẻ thù bắt đầu từ một hoàn cảnh yếu kém trầm trọng: Thiếu vật tư, thiếu thốn nguồn tài chính, bắt đầu từ không có quân đội, vậy mà vẫn có thể đánh thắng liên tiếp từ quân phiệt Nhật đến quân đội Pháp, đế quốc thuộc địa lớn thứ hai (sau Anh) và Hoa Kỳ, một trong 2 siêu cường của thế giới...”.
Anh Văn - tầm nhìn văn hóa chiến lược trong một nhân cách cao thượng và nhân văn toàn vẹn
Anh là một trong những tượng đài quân sự Việt Nam hiện đại, với công lao to lớn trong việc hình thành, phát triển học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, lấy chính nghĩa thắng bạo tàn, kế thừa và phát huy những bài học giá trị lịch sử của ông cha chống giặc ngoại xâm trong thời đại mới.
Anh là “bậc thầy chiến lược, chiến thuật và nghệ thuật quân sự; là chuyên gia về chiến tranh nhân dân” với sự kế thừa và phát triển từ nghệ thuật quân sự trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc; từ những nét đặc sắc của quân sự thế giới; từ lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân; từ tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân đánh bại mọi đội quân xâm lược hùng mạnh. Tầm vóc tư tưởng quân sự và những kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đại tướng là cơ sở quan trọng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục phát huy, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tạo tiền đề xây dựng quân đội hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong tầm nhìn đến năm 2030.
Tượng đài vị Đại tướng của lòng dân tỏa sáng.
Cùng với tầm nhìn của học thuyết quân sự Việt Nam, ở anh còn rực rỡ tầm nhìn văn hóa, nổi bật là tư duy “cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt”. Nhận thức sâu sắc vai trò then chốt của khoa học - kỹ thuật đối với đời sống xã hội, anh khẳng định: “Cách mạng khoa học - kỹ thuật tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội, tăng cường và củng cố nền chuyên chính vô sản... tạo nên cơ sở để xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới”.
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định khoa học - kỹ thuật là then chốt. Làm rõ quan điểm của Đảng, anh cho rằng: Cách mạng khoa học - kỹ thuật giữ vị trí then chốt là vì tiến hành cách mạng khoa học - kỹ thuật cũng tức là để đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.... Ngay từ năm 1985, anh đưa ra vấn đề “khoa học - kỹ thuật với chiến lược phát triển kinh tế biển”; khẳng định đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để từng bước hình thành ở nước ta một nền khoa học - kỹ thuật về biển, một nền kinh tế biển phát triển ở Đông Nam Á, ở châu Á - Thái Bình Dương, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng.
Xuất thân là thầy giáo dạy Sử - Địa, Đại tướng hiểu sâu sắc tầm quan trọng chiến lược của biển - đảo, cả về quốc phòng và kinh tế.
Ngay sau chiến thắng Buôn Ma Thuột tháng 3-1975, anh không chỉ nhìn ra thời cơ chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam mà còn nghĩ ngay đến việc giải phóng các hòn đảo trên biển Đông.
Đại tướng đã kiến nghị với Bộ Chính trị: "Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ". Kiến nghị này đã được ghi vào nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 25-3-1975. Đại tướng chỉ thị Bộ Tổng tham mưu điều ngay Sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh Hải quân vào Đà Nẵng, tham gia tiếp quản căn cứ hải quân ngụy mà ta vừa giải phóng, chuẩn bị sẵn sàng để giải phóng các đảo. Nhận được lệnh, các tàu hải quân và lực lượng thuộc Khu 5 dưới dạng tàu đánh cá, xuất phát ra Trường Sa. Ngày 14-4-1975, chỉ sau hơn 1 giờ chiến đấu, quân ta giải phóng đảo Song Tử Tây. Sau đó, giải phóng lần lượt các đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn… Ngày 28-4-1975, đảo An Bang được thu hồi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng Trường Sa.
Việc giải phóng Trường Sa một cách thần tốc, trước khi giải phóng hoàn toàn miền Nam không chỉ chứng tỏ tài điều binh khiển tướng, sự nhạy bén của Đại tướng mà còn chứng tỏ Đại tướng thấu suốt sâu xa vị thế và vai trò của biển, đảo đối với nước ta ngay từ khi đó.
Sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất, anh luôn trăn trở việc mở đường ra biển làm kinh tế biển, đảo, đặc biệt kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, giữ vững chủ quyền biển, đảo quốc gia. Anh kiến nghị Chính phủ, Quốc hội sớm thành lập đơn vị hành chính 2 huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 9-12-1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số 193/HĐBT thành lập 2 huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa (huyện Trường Sa hiện nay thuộc tỉnh Khánh Hòa và huyện Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng).
Và, năm 1977, trên cương vị Phó Thủ tướng, anh đề xuất một chiến lược mang tính đột phá về khoa học biển và kinh tế biển. Về hướng khai thác kinh tế biển, anh chỉ ra những vấn đề vượt thời gian: Việc khai thác dầu khí ngoài biển Việt Nam đã là chuyện trước mắt. Việc sử dụng năng lượng thủy triều ở bờ biển nước ta cũng phải đặt ra. Độ chênh lệch của thủy triều nước ta chứa đựng một tiềm năng quan trọng về năng lượng là rất quý. Có thể có những kiểu máy điện thủy triều được không? Các đồng chí vật lý biển phải trả lời vấn đề này, ngành cơ khí phải đi trước một bước…
Trong chỉ đạo phát triển kinh tế biển, anh có những kiến giải chiến lược rất sâu sắc. Đó là kinh tế vùng biển phải từ đất liền và phát triển ra biển và các hải đảo. Đưa dân ra làm kinh tế biển đảo, vừa cải thiện đời sống nhân dân vừa có lực lượng để thực hiện quốc phòng toàn dân, giữ vững chủ quyền biển, đảo. Và, năm 1985, anh đề ra chiến lược làm chủ biển với nội dung toàn diện và cụ thể. Anh nhắc lại nhiều lần: Phải đặc biệt chú trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh... Việc phân bố lực lượng sản xuất, phân bố lại lao động, phát triển kinh tế biển của các ngành, địa phương phải theo sự bố trí chiến lược thống nhất, nhằm làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng.
Vinh dự được sống và làm việc bên Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Người giáo dục và rèn luyện, anh học tập ý chí, tư tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống, luôn tu dưỡng rèn luyện, nói và làm theo gương Bác Hồ. Anh là một trong những người sớm nghiên cứu và viết về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách cơ bản, toàn diện, hệ thống và có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
***
Sinh thời, Đại tướng tâm niệm: "Tôi sống ngày nào cũng là vì đất nước ngày đó"!
Đó là tâm thế và khát vọng của một người con đất Việt vinh quang tỏa sáng!
Đó là tư tưởng của một nhân cách văn hóa lớn, với tinh thần trọn đời “dĩ công vi thượng”!
Đó là sự kết tinh và của tư duy, tầm nhìn chiến lược không chỉ của nhà chính trị kiệt xuất tỏa sáng và sống mãi trong lòng nhân dân ta mà còn là hiển linh uy danh của vị Đại tướng kiệt xuất Việt Nam tạc trong lòng nhân dân thế giới.
Tất cả làm nên gương mặt và tư chất của người chiến sĩ cộng sản kiên trung Võ Nguyên Giáp tài - đức vẹn tròn, văn - võ song toàn, với tầm nhìn vượt thế kỷ, sống mãi với sự nghiệp cách mạng, với dân tộc Việt Nam và lưu danh trong lịch sử phong trào cách mạng thế giới.